Friday, April 21, 2017

Giáng Sinh xưa - Can’t take you off my mind (17)

Đêm ấy tôi lại trăn trở. Sau cuộc nói chuyện với Jacqueline và Phyllis, cảm xúc phức tạp cứ cuồn cuộn dâng trào trong lòng. Tôi cảm thấy áy náy khi B đã lăn xả vào đám cháy mong cứu tôi và đã lo lắng cho tôi rất nhiều, trong khi tôi đang tận hưởng những điều đẹp đẽ thanh tao nhất, chìm ngập trong niềm hân hoan náo nhiệt khi thời khắc giao thừa đang đến gần. Và nhất là ở bên một người khác trong một không khí thân mật hơi bất thường đêm ấy. Nhưng nếu vào một hoàn cảnh khác, khi Jessie đồng ý đi chơi với B ở nơi anh thích thì liệu việc ấy có cân bằng được tâm trạng của tôi lúc này không? Tôi nhận thấy mình không vui khi tưởng tượng đến phiên bản ấy, và tự hỏi lòng mình có đang tự mâu thuẫn hay không, rồi tôi cố suy diễn để tự ngụy biện cho những suy nghĩ đang chồng chéo xoắn xéo trong đầu. Rất có thể, việc anh lo lắng về sự an nguy của tôi cũng rất bình thường. Bất kỳ người lính cứu hỏa nào cũng đặt công tác cứu người lên hàng đầu, tôi lại là người anh quen biết nên anh mới đặc biệt chạy đi tìm tôi trước mà thôi? Nhưng tại sao trong đêm tiệc Giáng Sinh ấy khi Jessie đến và kéo anh đi, trong đôi mắt anh như có mây đen báo hiệu một cơn giông tố sắp đến? Tôi xâu chuỗi các sự kiện lại với nhau để cố giải mã một điều gì đó nhưng càng cố thì lòng tôi càng rối bời vì mọi việc chẳng ăn nhập gì với nhau cả. Cả Jacqueline nữa, sau bao ngày chẳng hề đề cập đến B thì nay lại kể cho tôi nhiều chi tiết về anh đến thế?

Rồi tôi nghĩ đến người đàn bà phúc hậu Phyllis. Bà ấy trông rất lành, một mẫu người dễ chịu và luôn tạo thiện cảm cho người mới gặp lần đầu một cách chân thành. Theo lời Jacqueline, họ quen nhau ở một hội sinh hoạt của người Pháp, và mặc dù Phyllis không phải người Pháp nhưng bà từng du học ở đấy và rất yêu thích ngôn ngữ và văn hóa của đất nước này. Ngoài Le Chat Noir, bà còn sở hữu một cửa hiệu bé xinh bán giày, phụ kiện thời trang, và … sô cô la từ Pháp. Tôi nghĩ đến điều bà hỏi tôi ban sáng, và lại trăn trở. Tôi là người tâm linh, đó là điều có thật, thế nên tôi hiểu rất rõ khi bà hỏi tôi những điều có liên quan đến tâm linh như thế. Có một dạo, thời còn học trung học, hễ đêm nào tôi nằm mơ thấy ai thì y như rằng đó sẽ là người tôi gặp đầu tiên vào buổi sáng. Nhưng khi tôi thích thú cố gắng nghĩ đến người tôi đang thầm yêu trộm nhớ và muốn mơ thấy người ấy để sáng sớm có thể gặp người ấy ngay thì chẳng bao giờ thành công! Trời bất dung gian, cứ mỗi khi tôi cố “ép” giấc mơ đi theo ý muốn của mình thì tôi lại nằm mơ thấy người tôi không ưa, và dĩ nhiên, đó sẽ là người tôi chạm mặt trước hết vào khởi điểm của một ngày mới. Sáng nay khi đang cao hứng nói chuyện về đề tài tâm linh với hai người phụ nữ ấy, tôi suýt kể cho họ nghe chuyện những giấc mơ kỳ quái của tôi, nhưng rồi lại quyết định không kể. Tính tôi rất riêng tư, ít khi tâm sự chuyện cá nhân của mình với người khác, thậm chí với bạn thân thì tôi cũng rất chọn lọc việc nào kể việc nào không. Về vấn đề tâm linh này, tôi không thể chối cãi cảm nhận rất rõ của mình khi lần đầu tôi chạm mặt với B, thậm chí khi anh đang đứng khuất trong bóng cây và lúc chưa kịp nhìn rõ mặt anh thì tôi đã cảm nhận một sự thân quen nào đó rất dễ chịu. Dĩ nhiên khi ấy tôi đã chẳng nghĩ gì đến tiền kiếp hay hậu kiếp, nhưng sau khi gặp Phyllis xong thì chỉ biết dùng khái niệm này để định nghĩa cảm giác của mình lúc ấy mà thôi.

.

Cuộc gặp sáng nay với bố Bear diễn ra trôi chảy trong không khí thân mật và ấm cúng, tôi rất thích được nhìn ông thật tự hào khi khoe những tấm ảnh ấy với hai người đàn bà mới gặp như lần ông cho tôi và David xem hôm trước Tết nọ. Rồi khi đang ngon trớn kể chuyện xưa, cũng là những câu chuyện tôi đã được nghe hôm ấy, ông lại quay sang tôi và bô bô hỏi về David, về đêm giao thừa ở Le Chat Noir khiến tôi có cảm giác như kẻ ăn vụng vừa bị bắt quả tang và nhột nhạt khắp toàn thân. Tôi đâm bực bội với mặc cảm tội lỗi vô duyên vô căn cứ này, bởi vì việc tôi đi chơi với người tôi thích là chuyện cá nhân của tôi, cớ sao tôi cứ mãi lo lắng về việc người khác nghĩ về tôi như thế nào? Vả lại, cách Jacqueline nói về B và Jessie khiến tôi có cảm giác họ quen nhau đã lâu lắm, ở một mức thân mật đã liên quan đến gia đình hai bên cũng không chừng. Thế là tôi rũ bỏ tất cả những suy nghĩ đang khiến lòng rối như tơ vò mà mạnh dạn trả lời bố Bear, nhân tiện tôi cũng không quên ca tụng quán thật nhiệt tình để nói càng ít về David càng tốt, và cố lờ đi cái nhướn mày đầy thắc mắc của Jacqueline. Nhưng bà ấy chẳng nhận xét gì, và tôi mừng thầm trong lòng, cảm ơn bà đã tế nhị tránh cho tôi thêm một việc khó xử. Tôi cũng vừa kết thêm một người bạn mới là Phyllis. Tôi không ngờ bà hạnh phúc đến thế khi nghe những lời tốt đẹp về Le Chat Noir, khi ấy tôi lờ mờ hiểu rằng niềm đam mê quan trọng đến mức nào trong việc góp phần to lớn cho thành công trong cuộc sống, và cũng đủ để người ta sống chết vì một nghề nghiệp, sở thích, hay lý tưởng nào đó trong đời. 

.

Phyllis ăn chay và theo đạo Phật. Từ khi quen biết tôi, bà tỏ rõ sự quan tâm ưu ái đặc biệt cho tôi khiến tôi phát ngại. Tôi quen sống sâu kín với bản thân, ít biểu lộ cảm xúc nên người mới gặp tôi thường có cảm giác tôi hơi lạnh lùng và không thân thiện lắm, nhất là gặp trên điện thoại thì thôi rồi, họ không thấy được ngôn ngữ cơ thể thì họ càng tin vào điều ấy hơn nữa! Tôi quen nhiều người nhưng lại ít bạn, mà một khi đã là bạn thì thường là bạn ở tầm tri kỷ, là những người hợp cạ với tôi và đủ tin cậy để tôi trải lòng cùng. Dường như tôi và Phyllis có sự kết nối tâm linh nào đó, là bà tin và cảm nhận như thế, nên bà có vẻ rất thích tôi và hay khuyến khích tôi trò chuyện về những đề tài sâu sắc, vốn không dễ cho những người mới quen sơ như chúng tôi. Có thể chúng tôi cũng đã quen nhau trong tiền kiếp rồi cũng nên, thế nên hôm nay bà mới tự nhiên và quý mến người mới gặp lần đầu lại là đứa hay giữ kẽ như tôi. Việc một người phương Tây lại ăn chay và theo đạo Phật như Phyllis là điều tôi chưa bao giờ nghĩ đến, cho nên tôi khá ngạc nhiên, và nhất là trong khi tôi đến từ một xứ sở giàu truyền thống Phật giáo lại chẳng mảy may quan tâm gì đến nó cả. Jacqueline có gốc Công giáo La Mã, nhưng bà bị ảnh hưởng bởi Phyllis và đã bắt đầu tìm hiểu nhiều hơn về Phật giáo và đã cùng tập thiền với Phyllis khá đều đặn. 

- Từ khi tập thiền, tôi thấy mình kiên nhẫn hơn, tư duy rõ ràng mạch lạc hơn, và nhất là bệnh đau nửa đầu cũng giảm hẳn. - Jacqueline hào hứng kể - nếu cháu rảnh thì hãy tham gia cùng chúng tôi, biết đâu cháu sẽ thích. 

Hồi đó, khi nghe đến thiền là tôi cứ mường tượng mấy ông già râu tóc bạc phơ ngồi xếp bằng bất động trong nhiều giờ liền, như trong mấy phim võ hiệp cổ trang tôi từng xem hồi mới lớn. Thế nên khi nghe họ rủ rê là tôi đâm hoảng! Làm sao tôi có thể ngồi yên bất động trong nhiều giờ liền như thế được. 

- Ô là la, làm gì có chuyện ngồi yên mấy tiếng đồng hồ! - Jacqueline cười lớn - có lớp học hẳn hòi đấy, cháu yên tâm. Người mới tập thì sẽ học kỹ thuật trước, rồi bắt đầu chừng mười lăm phút thôi, sau sẽ tăng dần. Mai chúng ta đi nhé?

Tôi thích cách Jacqueline dẫn dụ người khác một cách hơi bất ngờ nhưng luôn thuyết phục như thế này, giống như lần bà bắt đầu dạy dương cầm cho tôi vào cùng ngày chúng tôi vừa bàn đến việc ấy, và ngay lần đầu gặp gỡ. Tôi đang suy nghĩ có nên bỏ buổi tập yoga với Kim để đi thiền với hai người phụ nữ đặc biệt này hay không thì Phyllis đã tiếp lời Jacqueline. 

- Lớp cũng có vài người trẻ đấy, cháu sẽ thích. Và thầy hướng dẫn cũng rất nhiệt tình. Ở đấy cũng có lớp yoga trước buổi tập cho thiền sinh mới, cháu có thể đến sớm để tập yoga với Jacqueline. 

.

Dậy sớm vào sáng sớm mùa đông, lại vào ngày cuối tuần, đối với tôi thật không dễ, nếu không muốn nói là cực hình. Tôi vốn là con cú đêm, cho nên thường có xu hướng ngủ nướng vào buổi sáng mới đủ giấc, nhưng tôi đã nhận lời đi tập yoga cùng Jacqueline nên đành ép mình đi ngủ sớm vào buổi tối hôm trước. Lớp yoga khá vắng, vì bắt đầu từ sáu giờ ba mươi sáng, và Jacqueline đến đón tôi lúc sáu giờ. Đường vắng nên chúng tôi đi chỉ mất mười phút đã đến nơi. Jacqueline chu đáo mang theo hai cái bánh sừng trâu và hai quả chuối, bà chia cho tôi một nửa, và chúng tôi uống cà phê mà nhân viên phòng tập đã pha sẵn trong máy cho khách. Ăn uống xong thì tôi cũng vừa tỉnh ngủ, nhưng vẫn không tránh khỏi việc vừa tập vừa ngáp sái quai hàm khiến Jacqueline phải bật cười. 

Phòng tập thiền thuộc về một ngôi chùa của Phật giáo Tây Tạng vừa được xây vài năm trước. Chùa được xây bằng gạch đỏ, thiếp vàng ở các đường viền, đây cũng là hai màu đặc trưng của các chùa và trang phục tu sĩ của hệ phái này. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy chùa không được xây theo kiến trúc đặc trưng của Tây Tạng mà lại mô phỏng kiểu nhà thờ Thiên Chúa giáo, với chóp nhọn cao ở đỉnh và nội thất hiện đại. Nhập gia tùy tục, có lẽ muốn truyền đạo ở nơi Thiên Chúa giáo thống lĩnh như thế này thì phải ứng dụng những hình ảnh quen mắt với đại đa số người dân rồi mới từ từ thuyết giảng giáo pháp vốn vẫn còn được xem là xa lạ và mới mẻ này. Trụ trì chùa là một ni cô người Mỹ, tuổi chừng ngoài năm mươi, dáng người nhỏ nhắn linh hoạt, gương mặt hiền lành phúc hậu và đôi mắt như luôn mỉm cười. Bà là đệ tử của một vị lạt ma người Tây Tạng, người đã làm việc không ngưng nghỉ để vận động thuyết pháp và truyền giáo trong nhiều năm, và cuối cùng đã thành công trong việc xây dựng ngôi chùa bé xinh và khang trang như hiện tại. Ông đã trụ trì chùa trong vài năm đầu và cuối cùng bàn giao lại cho ni cô này, vì theo ông, đã đến lúc ông phải đến những vùng đất khác để tiếp tục sứ mệnh truyền giáo sau khi đã hoàn tất công việc tại đây. 

Tôi thật ngỡ ngàng vì thứ nhất, tôi không ngờ mình lại có duyên bước vào một ngôi chùa Phật giáo ở trời Tây như thế này; thứ hai, tôi cảm thấy các bức tượng Phật tại đây thật xa lạ, rất khác với hình ảnh các vị Phật tôi từng quen thuộc khi đi chùa với má ngày trước. Nhưng tôi đã quen với việc chắp tay để vái chào các vị ni sư và tôi tự nhiên làm việc ấy khi gặp bà ni cô trụ trì khiến bà có vẻ rất vui và cũng chắp tay chào tôi lại. Phyllis nhìn tôi thích thú, mỉm cười hồn hậu rồi khẽ gật đầu như thể tôi vừa đạt mức yêu cầu trong một cuộc trắc nghiệm nhỏ trước khi bước vào kỳ thi chính thức. 

Sau khi tập yoga xong, người tôi giãn ra rất sảng khoái nên việc ngồi yên trong một thời gian dài không có gì khó khăn lắm. Phòng tập thiền nằm tại góc khuất ở mặt sau của chùa, và cửa ra vào ăn thông với sân vườn vốn sẽ xanh rờn và đầy hoa vào những ngày xuân sắp tới. Phyllis khuyên tôi nên mặc thêm áo khoác nhẹ và trải một tấm chăn mỏng lên chân để giữ ấm khi ngồi thiền, và tôi thật biết ơn bà đã chu đáo như thế với tôi vì việc này vô cùng cần thiết khi ngồi yên bất động trong mùa đông như thế này. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên một tấm đệm mỏng, hai tay thả lỏng và nghỉ trên gối, lưng thẳng, mắt cụp xuống sàn và lắng nghe lời thầy hướng dẫn. Vào đây học mới biết bản thân thiền cũng có nhiều hệ phái khác nhau với cách thức và mục tiêu thực tập khác nhau, và nơi đây dạy thiền vipassana - thiền minh sát - cũng quán chiếu hơi thở nhưng lại theo dõi chuyển động lên xuống của vùng bụng khi thở ra và hít vào, và từ đấy theo dõi các cảm nhận và cảm xúc của thân và tâm để rồi cuối cùng, quán chiếu về lẽ vô thường của đời sống và từ đó đạt đến ngưỡng nhập định và giải thoát. Tôi không có tham vọng đạt đến các cảnh giới cao xa như thế qua thiền định, nhưng lại có một ước vọng nho nhỏ là thông qua thực tập thiền, tôi sẽ có khả năng tập trung tốt hơn, trí nhớ được tăng cường hơn và do đó, suy nghĩ cũng sáng suốt hơn. 

Sau khi nghe qua phần lý thuyết ngắn gọn, các thiền sinh mới bắt đầu nhắm mắt lại và thực hành. Không gian tĩnh mịch hòa quyện với hương trầm thoang thoảng trong gian phòng gợi nhớ trong tôi những ngày đi chùa thắp nhang bái Phật với má, và cứ thế tâm tôi lại lan man nhớ lại những tháng ngày ấy mà quên mất nhiệm vụ chính lúc này là theo dõi hơi thở và theo dõi thân tâm. Rồi khi giật mình trở về hiện tại, tôi lại nghĩ đến vùng bụng, nơi hơi thở ra vào khiến nó nâng lên hạ xuống, tôi thấy mình chẳng quán chiếu gì được cả và bắt đầu cảm thấy chán, lại muốn nghĩ đến những chuyện khác làm cho tôi vui và thích thú hơn. Cứ thế, tôi cứ tự chơi trò đuổi bắt với tâm, mỗi khi nó đi đâu lan man thì tôi vui vẻ với việc ấy một chút, rồi lại kéo nó về, bắt nó phải theo dõi hơi thở như đã được chỉ dẫn. 

Tiếng chuông đồng âm vang nhè nhẹ báo hiệu mười lăm phút đầu vừa qua, các thiền sinh mới có thể ngưng tập vào lúc này nhưng khi tôi liếc mắt nhìn sang hai bên thì thấy hai người bạn của tôi vẫn ngồi im bất động, thế là tôi quyết định ngồi tiếp mười lăm phút nữa xem thế nào. Lần này, tâm tôi còn dao động mạnh hơn cả lần trước, vì tôi không còn nhớ những ngày đi chùa xưa mà tôi lại nghĩ đến một người. Tôi chẳng hề mảy may có ý muốn nghĩ đến người ấy nhưng tâm tôi đã dao động đến mức mất kiểm soát, và khi nó bắt đầu nghĩ đến người ấy thì tôi như có cảm giác như đang lạc vào một cái lưới nhện mềm mại như lụa và êm ái như tơ, nơi ta chỉ muốn dừng chân nghỉ và tạm quên hết mọi sự trên đời, rồi chỉ biết tiếp tục phiêu du bất định vào chốn bồng lai tiên cảnh mà nó vẽ vời, giăng bẫy …

No comments:

Post a Comment

Happy Valentine's day!

Tình hình là Valentine năm nay mình đành lỗi hẹn với vụ ra sách GSX, là bởi vì nhà xuất bản làm việc theo kế hoạch từ đầu năm nên muốn nhét ...