Friday, February 14, 2020

Happy Valentine's day!

Tình hình là Valentine năm nay mình đành lỗi hẹn với vụ ra sách GSX, là bởi vì nhà xuất bản làm việc theo kế hoạch từ đầu năm nên muốn nhét thêm sách in ngoài kế hoạch thì thường không dễ. Nhưng thôi, đầu năm nay bên nhà xuất bản đã cho sách mình vào kế hoạch xuất bản cho năm nay rồi, đến tháng 8 sẽ bắt tay vào làm và phát hành sách vào dịp giáng sinh. Thế nên tựa sách cũng sẽ không cần phải đổi.

Chúc các bạn ngày Valentine thật vui vẻ và ấm áp bên người thương! Chúc các bạn chưa có Valentine sớm tìm được người mình hằng mơ mộng ấp ủ nhé :-)

Monday, October 14, 2019

In sách và vài việc có liên quan

Mình tạm thời thông báo với bạn đọc Giáng Sinh xưa yêu quý là đã có một nhà xuất bản đồng ý in sách rồi, nhưng sẽ không kịp ra sách cho dịp Giáng sinh năm nay mà phải dời sang Valentine năm sau vì cận kề quá họ làm không kịp. Xin lỗi các bạn mình đã lặn khá lâu mà không cập nhật tình hình, vì mình không thích bàn bạc khi chuyện chưa ngã ngũ. Chuyện in sách vẫn chưa thành giấy trắng mực đen, nhưng vì mình làm việc trực tiếp với giám đốc kiêm tổng biên tập và chị ấy đã đồng ý thì mình đã có thể xem đây là một bảo đảm và có động lực để chia sẻ với bạn đọc vậy :).

Vì sách không ra mùa Giáng sinh nên tựa đề cũng sẽ thay đổi. Nội dung cũng vậy, sẽ có nhiều cắt xén, gọt giũa và thêm nhiều chương không có trong blog. Có thể nói, phiên bảo blog như một cô gái mặt đẹp nhưng thừa cân và phiên bản sách cũng là cô ấy nhưng đã tập thể dục ăn kiêng lành mạnh nên sẽ có nhiều ngạc nhiên thú vị cho độc giả, kể cả những độc giả "ruột" đã được mình chia sẻ ít nhiều "chuyện nội bộ" :D. 

Có thể nói, mình đã gần như viết lại hoàn toàn từ đầu, để ý chỉnh sửa từ dấu chấm câu cho đến kết cấu câu, kết cấu đoạn văn, vì viết ngẫu hứng trên blog rất khác với viết chỉn chu thành sách. Nhờ vụ viết và in sách này mà mình đã học được rất nhiều. Mình học được chữ nhẫn, học cách tiếp thu phê bình từ người giỏi hơn mình, học cách làm mới và trau dồi bản thân. Sau khi bản thảo của mình được một người biên tập chê tận tình và chỉ ra những cái chưa được (anh ấy cũng là nhà văn), mình đã nuốt tự ái mà đăng ký học ngay một khóa học về creative writing, và phát hiện ra việc viết theo ngôi thứ nhất (nhân vật chính / người kể chuyện là "tôi") là một thử thách so với cách kể chuyện thông thường của tiểu thuyết. Viết theo kiểu này, nếu không khéo, câu chuyện sẽ dễ rơi vào nhàm chán và hơi chủ quan vì mọi chuyện, mọi suy nghĩ, trăn trở sâu sắc đều qua lăng kính của một người duy nhất: "tôi", các nhân vận quan trọng khác không có chỗ đứng, không có đất sáng tạo, khó góp phần làm cân bằng câu chuyện cho hấp dẫn, sinh động hơn. 

Thế nên phiên bản sách sẽ có cách viết hơi mới, thêm nhiều nội dung mới, hấp dẫn hơn để cân bằng yếu thế của việc kể chuyện theo ngôi thứ nhất này. Mình phải cảm ơn anh biên tập kia đã thật lòng chỉ ra những yếu điểm của bản thảo ban đầu mà người viết lần đầu như mình hoàn toàn không nhìn ra! Đúng là ai thẳng thắn chê ta mới là bạn. Mình rất thấm câu này.

Tạm thời là thế. Từ từ mình sẽ cập nhật tiếp tình hình và có thể sẽ tham khảo ý kiến bạn đọc về một số việc nữa. Cảm ơn các bạn vẫn âm thầm theo dõi tiến triển sách của mình nhé! 

Tuesday, February 19, 2019

Giáng Sinh xưa - The spy who loved me (52)


Cuộc nói chuyện nặng nề đầy khó khăn kia như vừa rút sạch năng lượng ra khỏi người. Về đến nhà, tôi mệt mỏi và buồn bã đưa mắt nhìn khắp căn hộ thân quen mà mình sắp phải chia tay chỉ trong vòng vài tuần lễ. Bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, những ngày đông giá buốt chỉ có sách và âm nhạc làm bạn đồng hành, rồi những ngày xuân rộn rã, háo hức ùa đến lúc nào không hay, tuôn đầy nắng ấm vào tâm hồn đang yêu và lâng lâng hạnh phúc của tôi sau những ngày chờ đợi người tôi yêu nói lời tỏ tình chính thức. Người đàn ông giỏi giang, đẹp trai và lịch lãm của tôi cũng từng bị tẽn tò tại đây một lần vì đã bắt nhầm sóng mà tôi đã ngây thơ vô tình phát sai tín hiệu trong lần hẹn hò đẹp đẽ đầu tiên, và rồi sau khi dìu tôi lần đầu qua những cung bậc đam mê của vườn Địa đàng, anh đã nghiễm nhiên trở thành chủ nhân thứ hai của căn hộ này, nơi tôi và anh đã ẩn náu khỏi thế giới chung quanh và đã trải qua những ngày tháng yêu đương cuồng nhiệt và bốc cháy. Tôi bước chầm chậm khắp phòng, vờn nhẹ đầu ngón tay lên thành ghế sofa, lên mép đã mòn vẹt của chiếc bàn con mà tôi nhặt được ở góc phố ngày nào khi ai đó dọn nhà mùa xuân và không cần nó nữa, lên chiếc tủ bếp nơi B thường lục lọi tìm thức ăn những khi anh xuất hiện bất ngờ với chiếc dạ dày rỗng cùng một trái tim luôn tràn đầy yêu thương và một cơ thể căng đầy sức sống … Tôi cảm giác nơi đâu tôi chạm vào đều có dấu ấn của anh để lại, đầu ngón tay tôi hơi tê dại như đang chạm vào rung động của những sợi dây đàn mỗi khi có bàn tay đẹp của B lấn lướt, nghĩ đến đó tôi bỗng sợ hãi, giật thót người rồi nhanh chóng rụt tay lại như sợ phải đối diện với những ảo giác anh vừa gây ra cho tôi, hay do tôi tự tạo ra cho mình tôi cũng chẳng rõ nữa. 

Có tiếng cào nhẹ ở cửa chính khiến dòng suy tư bất tận trong tôi vừa bị cắt ngang, có lẽ lại là con mèo hoang thi thoảng vẫn đến “gõ cửa” và xin ăn trong những tuần lễ gần đây. Tôi vốn rất yêu mèo, từ bé đã luôn nuôi mèo trong nhà nên dễ mủi lòng trước những con mèo vô gia cư đói khát như thế này trong khi tôi lại không được phép mang nó vào nhà và nuôi chính thức. Khi cúi người đặt bát thức ăn xuống đất cho con mèo ngoan ngoãn kia, tiện tay tôi lơ đãng lôi ra một mảnh giấy rơi trong kẹt cửa, định vo lại rồi quẳng vào thùng rác nhưng linh tính lại mách bảo tôi không được làm thế. Tôi mở mảnh giấy ra và rụng rời chân tay khi đọc nội dung trong ấy.

Đó là tin nhắn của David, có vẻ được viết vội vàng rồi nhét vào kẹt cửa và được gửi cùng ngày tôi nhận được tin nhắn của Vivien hẹn gặp rồi mời tôi tham gia nhảy can-can với nhóm bạn của nó dạo nào. Chẳng hiểu sao tôi lại chỉ bắt gặp mẩu tin của Vivien, trong khi tin nhắn của David lại rơi sâu vào kẹt cửa và mất tích ở đấy trong nhiều tháng qua. 

“Xin lỗi vì đã đường đột đến nhà em, không gặp được em nên anh đành để lại tin nhắn này vì đang vội. Có lẽ anh sẽ không có cơ hội gặp lại em trong một thời gian dài vì anh sắp phải đi công tác bất ngờ … hãy thứ lỗi cho anh vì đã không kịp chào em. Có rất nhiều điều anh muốn nói cùng em, tất cả đều gói gọn trong lá thư viết vội đêm trước … hy vọng em sẽ dành thời gian đọc nó. Hẹn gặp lại. David.”

Tôi bần thần một hồi, đầu óc trống rỗng chẳng nghĩ được gì. Sau cú điện thoại bất ngờ hôm nọ, David đã giữ đúng lời hứa, không gọi lại, không tìm gặp tôi. Tôi có tìm cách gọi David để chia buồn về việc ba anh mất nhưng anh chẳng trả lời. Gọi năm lần bảy lượt, tôi nghĩ anh đã đổi số điện thoại nhưng Linda xác nhận với tôi đó vẫn là số cũ của anh. Vậy là anh đã cố tránh mặt tôi. Lòng buồn bã khi nghĩ đến David, tôi chợt nhớ đến lá thư mà anh đã nhắc đến trong tin nhắn. Anh nói đến lá thư nào đấy nhỉ? 

Thôi đúng rồi. Khi dọn vào đây, vì biết mình sẽ chỉ ở tạm nên tôi đã dùng địa chỉ thư tín là văn phòng giáo sư Reynolds cho tiện, thế nên tôi chẳng bao giờ động đến hộp thư của căn hộ này. Chợt hiểu ra, tôi vội vã chạy như bay xuống tầng trệt nơi có dãy hộp thư, rồi chợt nhớ mình chẳng có chìa khóa, lại chạy ào lên căn hộ, úp ngược chiếc bát sứ đựng những thứ linh tinh ra sàn nhà rồi hoảng loạn dùng cả hai tay cào bới mớ của nả linh tinh ấy với hy vọng tìm được chìa khóa hòm thư. Đây rồi, chiếc chìa khóa nhỏ xíu bằng ngón tay út vừa văng ra, tôi tóm lấy nó rồi lại chạy ào ra khỏi căn hộ, suýt nữa thì ngã nhào khi đang ở vài bậc thang cuối dẫn xuống tầng trệt. 

Trống ngực đập mạnh khiến tim tôi như sắp bắn ra ngoài, tay tôi run rẩy tra chìa vào ổ khóa hộp thư, vặn mãi mà cái khóa cứng đầu vẫn chẳng chịu mở cho, rồi tôi chợt nhận ra mình đã ra sức vặn nhầm hộp thư của người khác. Đây rồi, cái hộp thư đóng bụi của tôi, trống rỗng chẳng có nổi một mảnh giấy vụn hay thậm chí cái xác khô của những con bọ mùa hè, lá thư của David thì vẫn cô đơn lặng lẽ nằm đấy chờ tôi trong vài tháng qua. Tôi run run cầm lấy lá thư, chẳng kịp nghĩ đến việc khóa hộp thư lại rồi đi thật chậm lên lầu trong khi chân chỉ muốn chạy thật nhanh để đọc được những điều David muốn nhắn gửi. Để làm gì, tôi cũng chẳng biết. Dù sao tôi cũng không còn ở Mỹ lâu ngày nữa, nếu giải tỏa được gì với anh, tôi vẫn hy vọng mình sẽ sớm có cơ hội thực hiện. 

Đọc thư David, tôi khóc ngon lành. Khóc vì thương anh, một thứ tình thương xuất phát từ sự cảm thông của một người thứ ba, một người bạn, với một sự khách quan đặc biệt và hoàn toàn không mang dấu vết của sự thương hại từ một kẻ “phụ bạc” đầy tội lỗi. Thư David viết không hẳn là thư tình, trong thư anh chẳng hề nói anh yêu tôi nhưng tình cảm ấy thì đã bộc lộ quá rõ ràng không thể chối cãi. Một thứ tình cảm dịu êm, nhẹ nhàng, một thứ tình yêu đằm thắm được ngụy trang bằng những ngôn từ thoáng đạt và trau chuốt. Thư David viết giống như một câu chuyện thu nhỏ về những ngày tôi và anh vừa quen biết nhau, như những trang nhật ký viết vội, nó khiến tôi cảm giác như đang đi ngược lại những ngày đầu bỡ ngỡ chưa có bạn bè, ngại ngùng với người lạ và văn hóa lạ, nghĩ về những ngày tháng tưởng như đã rất xa rồi khiến lòng tôi mang mác một nỗi nhớ thật khó tả. Biết anh đang viết vội nhưng nét chữ thảo hơi nghiêng và đều đặn đã cho tôi biết sự tỉ mẩn của người viết cùng sự trân trọng dành cho người nhận thư của anh. Văn phong của David cũng rất mượt mà, tinh tế, biểu cảm nhưng không quá đà, giống y như tính cách của anh vậy. 

Tôi thở dài, mở cửa sổ và leo ra nóc nhà, ngồi bó gối, bần thần nghĩ ngợi không biết làm cách nào cho David biết tôi đã đọc thư anh, rằng tôi đã hiểu ra sự thật về việc anh mất tích không báo trước như thế, và nhất là tôi không hề ngó lơ những tình cảm đẹp anh đã dành cho tôi và muốn cám ơn anh về việc ấy. Dù không đáp lại tình cảm của anh nhưng tôi nghĩ, ít ra đó cũng là cách cư xử đẹp của loài người với nhau, và David xứng đáng được tôn trọng như thế. Nắng đã gần tắt, hoàng hôn treo lơ lửng trên gác chuông nhà thờ xa xa bên kia đường, hắt những tia nắng cuối ngày lên những chùm lá cây đã bắt đầu manh nha đổi màu báo hiệu thu về. Một cơn gió thoảng nhẹ khiến tôi hơi rùng mình vì hơi lạnh đầu thu.
.
“Ôi, David!” 
Tôi thảng thốt kêu lên và chết trân khi nhìn thấy David đứng trước cửa nhà mình, dáng cao và gầy hốc hác thấy rõ khiến tôi hơi có chút mủi lòng.
“Khi nãy em gọi mà không để lại tin nhắn như mọi lần, anh cảm giác có việc gì đấy chẳng lành nên quyết định sang gặp em … Hy vọng em không phiền về việc ấy …”
“Ồ, không, không đâu David …” 

Tôi cứ ấp úng chẳng ra đầu ra đuôi, bối rối quay mặt đi và lén lau những giọt nước mắt còn sót lại. Bỡ ngỡ quá. Lúc vừa định thần sau khi đọc thư anh xong, tôi quyết định gọi David, có cảm giác mình đang cố vớt vát trong một nỗ lực làm dịu bớt những ưu tư phiền muộn không đáng có cho bất cứ ai vì sự vô tình của mình. Nhìn David vừa gần gũi vừa xa lạ, giờ đây lại vừa phát hiện ra một số sự kiện không may mà anh đã trải qua, tôi thấy mình thật ngớ ngẩn trong tình huống kỳ lạ này. Tôi lóng ngóng mời David vào nhà, không muốn đóng cửa nhưng lại nhác thấy vài đôi mắt tò mò từ những ô cửa sổ kế cận, thế nên tôi lại đổi ý.

“Anh đã không nói gì về mình hồi mới quen em là có lý do riêng.” David mở lời. “Công việc của anh có liên quan đến những vấn đề nhạy cảm quốc gia, và anh không được chia sẻ những gì anh làm, sẽ đi đâu, với bất cứ ai, kể cả với gia đình như cha mẹ, anh chị em, vợ con. Dĩ nhiên, hiện tại thì là với … cha mẹ và anh chị em.” 
David hơi húng hắng khi nói đến đấy, trong khi tôi bắt đầu nhấp nhổm trên ghế, cố giữ im lặng, lòng dâng lên những cơn hồi hộp cuộn trào. 

“Sau lần cuối gặp em, anh nhận được công tác khẩn, và phải đi ngay trong vòng hai mươi bốn giờ. Anh không được phép gọi điện thoại, gửi email cho bất cứ ai và cho họ biết mình sắp đi xa kể từ khi nhận công tác. Đó sẽ là một chuyến đi dài ngày, anh chỉ có thể nói như thế.” 

Tôi suýt giật bắn người lên, cảm giác mình lại sắp vướng vào một điệp vụ bất khả. Lại thêm một người đàn ông với những mật vụ mà tôi chẳng hề biết hoặc được phép biết đang sắp giãi bày với tôi tại sao tự dưng anh ta bỗng mất tích trong vài tháng qua. Kịch tính cuộc đời lại bắt đầu tăng lên theo cấp số nhân, tôi lẩm bẩm trong trí ... 
“Đó là một công tác cực kỳ khó khăn, và có phần nguy hiểm vì anh thường bị phân tâm khi cứ hay nghĩ đến em.” 

Nói đến đây, David mở ví ra và đưa cho tôi tấm ảnh của chúng tôi vào đêm giao thừa, lúc này đã hơi sờn góc. Trong ảnh, tôi hơi nép người vào David, mỉm cười, anh cũng mỉm cười trông rất hạnh phúc. Quả thật, khi nhìn tấm ảnh ấy, không thể không nghĩ rằng đó là một cặp đôi đang yêu. Bần thần, tôi nghe tiếng trống ngực đập dập dồn, chợt nhớ đến Le Chat Noir huyền ảo và đẹp đẽ, những bản nhạc jazz cổ kim ru hồn, pháo hoa rực rỡ trên nền trời đen đặc lạnh căm, và một trận hỏa hoạn. Tất cả, như một quá khứ đã bị phủ bụi dầy và xóa nhòa trong trí nhớ của tôi, sau những tháng ngày yêu B như điên dại, giờ đây bỗng dưng được chiếu chậm trong suy tưởng của tôi, sống động đến từng chi tiết. 

“Khi xong chuyến công tác ấy, chưa kịp về nhà thì anh được tin ba mình vừa mất. Thế là anh phải hủy chuyến bay về nhà và chuyển hướng sang phi trường Heathrow …”
David nhìn tôi, ánh mắt hơi buồn, rồi anh vội giải thích khi biết tôi đang có nhiều thắc mắc chung quanh việc này. 
“Chồng hiện tại của mẹ anh là cha dượng chứ không phải ba ruột của anh. Ngày trước mẹ anh từng đi du học ở Anh quốc, trải qua một mối tình chớp nhoáng với ba anh … sau này bà lấy người khác, cũng là người Hồng Kông bản địa rồi họ di cư sang Mỹ và có thêm một người con, là em gái cùng mẹ khác cha của anh.”

David lại cho tôi xem một tấm ảnh của ba anh, một người đàn ông da trắng dáng cao, vai ngực vạm vỡ, tóc xoăn và gương mặt nghiêm nghị với xương hàm góc cạnh rất cá tính, đôi mắt đẹp nhưng hơi buồn, tôi nhận ra David có khá nhiều nét giống bố dù anh mang nhiều nét Á đông hơn so với một người lai Âu. Tôi hơi giật mình, những người đàn ông trong đời tôi sao hay có những gút mắc với ba mình thế này. Lại có tiếng sột soạt ở cửa, chắc con mèo đã ăn xong và đòi vào nhà, như mọi khi. Trước đây, thi thoảng tôi lén mang nó vào nhà, cho nó chơi trong nhà khi tôi nấu ăn hoặc đọc sách, rồi khi có việc phải đi, tôi lại mang nó ra ngoài để tránh rắc rối với người quản lý chung cư.

“Này David …” Tôi hơi ngập ngừng. “Cảm ơn anh đã chia sẻ với em về những chuyện cá nhân của mình. Em rất tiếc vì anh đã trải qua những khó khăn ấy trong khi em chẳng hề hay biết gì, lại còn lạnh lùng với anh. Em xin lỗi.”
David cười buồn và lắc đầu, bảo tôi vớ vẩn quá. 
“Anh hy vọng em hạnh phúc với lựa chọn của mình.” 

David khẽ nói và nhìn tôi thật dịu dàng khiến tôi bối rối liếc nhìn ra cửa sổ để tránh ánh mắt ấy. Tôi có hạnh phúc với lựa chọn của mình không? Dĩ nhiên là có đấy chứ, nhưng tôi biết mình cũng đã chọn sóng gió và một con đường gập ghềnh đầy bất ổn. 
“David, liệu có ổn không nếu anh vẫn giữ tấm ảnh của em và anh?” Tôi ngập ngừng hỏi, cảm thấy mình hơi vô duyên.
“Hiện giờ thì anh thấy ổn.” David mỉm cười nhìn tôi. 
“Vậy anh sẽ làm gì với tấm ảnh nếu một ngày nào đó anh … không thấy ổn với việc giữ nó nữa?”
“Thì anh sẽ thuê một cái két sắt nhỏ ở ngân hàng để cho nó tạm trú ở đó!” David nhìn tôi và trả lời, giọng nửa đùa nửa thật. 
“Tại sao anh không gặp Linda?” Tôi lại buộc miệng hỏi David.
“Việc ấy sẽ chẳng thay đổi gì cả …” 

David nhìn thẳng vào mắt tôi và trả lời khiến tôi lại phải quay mặt đi, lảng tránh cái nhìn bộc trực của anh một lần nữa. Chưa bao giờ tôi thấy lòng mình rối như lúc này. Cái tật hay bao đồng lo nghĩ cho người khác khiến tôi cứ hay tự dày vò mình. Thiên hạ rồi cũng ổn thôi, ai cũng phải tự lo cho mình, nếu không có tôi lo cho thì có chết ai đâu. Nghĩ như thế nhưng tôi cứ không yên và lòng vẫn hay gợn sóng thật khó chịu.

“Em sắp đi đâu à?” David hỏi tôi khi nhìn vào chiếc hành lý dựng ở góc phòng và chiếc ba lô treo bên trên. 
“Vâng, sáng sớm ngày kia em bay sang Los Angeles để thăm ông bác.”
“Chuyến bay của em cất cánh vào mấy giờ?”
“Sáu giờ sáng.”
“Tức là em phải có mặt ở sân bay vào bốn giờ sáng …” David hơi châu mày, rồi nói tiếp. “Hãy để anh đưa em ra phi trường.” 
“Cám ơn anh … nhưng em tự đi taxi được …”
“Em đừng ngại. Anh không yên tâm khi em phải đi taxi một mình vào giờ vắng vẻ đặc biệt thế này. Nếu là Linda hay cô bạn thân nào khác thì anh cũng sẽ muốn làm việc ấy thôi!” 

David mỉm cười, giọng có vẻ như cố trấn an tôi. Đúng là tôi chẳng muốn dính dáng gì thêm với anh nữa nhưng tôi cũng hơi quan ngại việc phải một thân một mình đi taxi ra phi trường vào lúc ba giờ rưỡi sáng nên cuối cùng tôi cũng nhận lời.

Phi trường khá vắng vẻ, xa lộ vào ba giờ rưỡi sáng cũng yên bình, David im lặng lái xe trong khi tôi lãng đãng nhìn ra đường, ngắm những dãy cột điện đen ngòm vô cảm lướt qua trong màn đêm vẫn còn dày đặc. Tháng sau tôi lại ra sân bay, vượt đại dương mênh mông và sẽ để lại sau lưng mãi mãi tất cả những điều êm dịu, đẹp đẽ nhất tôi từng trải qua trong đời. Ý nghĩ ấy làm tôi khó chịu, ruột gan bỗng quặn lên nhói đau khiến tôi chỉ muốn khóc thật to cho vơi bớt u sầu. 

Đến sân bay, David vẫn lặng lẽ, anh mở cốp xe và giúp tôi mang hành lý đi vào trong. 
“Em đi đường bình an nhé.” 

Tôi gật đầu, muốn ôm tạm biệt David vì lòng tôi đang trống trải quá, mong được tìm hơi ấm con người để tìm chút bình an ở đấy, nhưng lại thôi. Chưa bao giờ tôi cảm giác cô đơn và bơ vơ như thế này, rồi không kềm nén cảm xúc được nữa, tôi bỗng ôm mặt khóc nấc lên. David châu mày rồi hơi mỉm cười và cầm tay tôi, siết nhẹ. Có lẽ anh đang cảm nhận nỗi đau khó định nghĩa trong tôi. 

“Thôi nào em đừng khóc chứ. Người ngoài nhìn vào lại tưởng anh là kẻ thật diễm phúc có thể làm em khóc vì mình đấy!”

Tôi cười buồn, cảm thấy đúng là không công bằng cho anh. Nếu có một điều ước về David, tôi sẽ ước rằng tôi và anh chưa bao giờ gặp nhau để cả hai khỏi phải lấn cấn khổ sở về nhau một cách không cần thiết như thế này. Bịn rịn chia tay David, tôi lặng lẽ khoác ba lô lên vai và bước đi, lòng hiểu rằng thời gian rồi sẽ giúp xoa dịu tất cả chúng tôi, những con người vô tình hội tụ rồi gặp nhau từ những phương trời xa lắc trong kiếp sống đầy rẫy những sự kiện buồn vui khó quên này.

Tiếng động cơ gầm rú và cảm giác hẫng đột ngột lúc máy bay cất cánh cho tôi biết mình đang lơ lửng trên bầu trời đặc quánh không trăng sao và dần dần cách xa David về khoảng không vật lý. Có lẽ đây cũng là chuyến bay đưa tôi đi khỏi đời anh và sẽ mãi mãi kết thúc những trái khoáy bất ngờ và không cần thiết giữa chúng tôi nữa. Ý nghĩ ấy khiến tôi vừa nhẹ nhõm vừa buồn mênh mang. Thẳm sâu tận đáy lòng, tôi biết tôi và anh sẽ khó mà quên nhau được, dù với những lý do rất khác

Wednesday, November 28, 2018

Giáng Sinh xưa - And so I've learned the meaning of the sun (50B)



“Tiếng còi hụ của cảnh sát di trú luôn là ác mộng của những người dân tại đây. Chị ấy từng bị trục xuất về Mexico vài lần rồi đấy, nhưng chị ấy luôn tìm cách quay trở lại sau vài ngày, thậm chí vài giờ … Nhưng cảnh sát di trú cũng làm việc theo những cách thức khác nhau, tùy người hay sao ấy. Có lần họ hỏi chị có mong muốn chính phủ Mỹ giúp đỡ gì cho mình, chị đã trả lời họ rằng chị không mong chờ bất cứ sự giúp đỡ nào cả. Chị làm việc chăm chỉ, chị chẳng phải tội phạm, chẳng xin trợ cấp, chị đổ mồ hôi sôi nước mắt và kiếm tiền lương thiện. Và họ đã để cho chị đi …” Tôi khẽ liếc mắt nhìn B, anh vẫn chẳng nói gì, chưa bao giờ tôi thấy anh lặng lẽ như lúc này, đôi mắt càng sâu hun hút, mang đầy bên trong gánh nặng của những ưu tư đau đáu đến dày vò . 

“Và anh biết chị ấy còn nói gì nữa không?” Tôi cố đổi giọng vui vẻ để thay đổi không khí, nhổm người dậy và tỳ người lên hai cánh tay đang gấp lại. B khẽ liếc sang tôi, môi hơi giãn ra, ánh mắt có phần mềm hơn trong khi tôi tiếp tục nói. “Chị ấy bảo rằng cảnh sát da trắng lại có vẻ thông cảm hơn với những người nhập cư bất hợp pháp, trong khi các cảnh sát gốc Mexico sinh trưởng tại Mỹ lại có phần nghiêm ngặt hơn. Có lẽ vì họ xem những đối tượng này là sự sỉ nhục cho người gốc Nam Mỹ thì phải.”

Lúc này tôi mới nhìn thấy B mỉm cười, anh dịu dàng hỏi tôi. “Thế em nghĩ thế nào về việc này? Về toàn bộ câu chuyện em vừa kể cho anh nghe ấy?”

“Dĩ nhiên em rất tội cho họ. Hoàn cảnh thôi, chẳng ai muốn từ bỏ quê hương xứ sở của mình đúng không anh …” 

Tôi muốn nói nhiều hơn nữa nhưng cảm thấy không thật sự cần thiết. Dường như anh hỏi không phải để nghe câu trả lời mà là đi tìm một sự đồng thuận, một sự cảm thông tư tưởng nào đấy với mình. B khẽ gật đầu rồi hôn nhẹ lên trán tôi. 

“Em thật nhân hậu, em biết không?” 
“Ồ, em nghĩ ai mà chứng kiến những gì em được thấy hôm nay đều sẽ có những suy nghĩ như em thôi …”
“Không, anh không nói đến cảm xúc của em, mà là anh đang nghĩ đến việc khác cơ. Về việc em chủ động tặng chiếc vòng cho cô bé con ấy …”
“Trời ạ, anh bận bịu thế mà vẫn nắm hết hành tung của em à?” 
“Thói quen thôi, anh cứ phải luôn để mắt đến em …” B có vẻ hơi đỏ mặt khi trả lời tôi.
“Đúng rồi, vệ sĩ riêng thì phải luôn cảnh giác cao độ để bảo vệ thân chủ của mình đúng không?” 
“Thân chủ đáng yêu và vô giá của anh, anh phải bảo vệ bằng mọi cách!” B vừa nói vừa với tay lấy chiếc quạt, phe phẩy sau lưng và âu yếm hôn nhẹ lên môi tôi. 
“Cô bé ấy đã mười một tuổi đấy anh ạ, vậy mà nó còi cọc, em cứ tưởng con bé mới bảy tuổi thôi …”

Tôi lại nhớ đến câu chuyện hãi hùng của cô bé. Việc trẻ con đi học về đến nhà và được hàng xóm cho biết bố hoặc mẹ hoặc cả bố lẫn mẹ vừa bị trục xuất là việc thường tình, và những người hàng xóm tốt bụng luôn bảo bọc những đứa trẻ trong hoàn cảnh bất hạnh như thế cho đến ngày bố mẹ chúng tìm cách quay về. Một số chẳng bao giờ còn gặp lại được bố mẹ. Nghĩ đến đấy, tôi lại rơm rớm nước mắt trong khi B khẽ dùng tay lau nước mắt trên mặt tôi. 

“Anh hiểu những trăn trở của em. Đây chỉ là một ví dụ về những mảnh đời như thế, và họ vẫn thuộc hàng may mắn khi so sánh với những người bị kẹt lại bên kia khi đất nước họ vật vã hơn hai mươi năm nội chiến và tội phạm nguy hiểm đầy dẫy ngoài đường còn chính phủ thì bất tài, bất lực và tham nhũng vô cùng tận.” B ngừng nói, khẽ vuốt tóc tôi và hỏi. “Nếu có điều kiện để được làm việc và giúp đỡ những người như họ, liệu em có sẵn lòng không?”

Tôi giật mình trước câu hỏi ấy của B. Chẳng là tôi đang cố tình đi xa vài ngày với hội tập thiền để lắng đọng suy nghĩ, tìm ra một hướng đi tốt đẹp nhất cho bản thân khi tôi sắp chập chững bước vào tuổi hai mươi bốn, làm sao có thể cân bằng một khởi đầu nghề nghiệp đầy hứa hẹn mà vẫn có thể duy trì được mối quan hệ tình cảm đang đến hồi đơm hoa kết trái của tôi và B. Nghiệp duyên đã đưa tôi đến với nước Mỹ, được học hỏi những điều tốt đẹp khác về ý nghĩa cuộc sống trong gần một năm qua, tôi đã bớt bị ám ảnh bởi nhu cầu phải kiếm thật nhiều tiền như thời còn là sinh viên. Ở phương Tây có nhiều lựa chọn hơn, có thể làm những công việc có ý nghĩa cho đời mà vẫn có thể kiếm đủ tiền trang trải cuộc sống, tôi lại thấy mình lăn tăn hết nâng lên rồi đặt xuống những chọn lựa lên bàn cân cuộc đời, vốn chỉ chứa đầy những lý trí lạnh lùng đến tàn nhẫn. Tôi vẫn chưa cho anh biết về công việc đang chờ tôi ở Việt Nam, rằng visa của tôi sắp hết hạn, rằng tôi sắp phải xa anh, rằng tôi chưa hề sẵn sàng cho bất cứ việc nào trong vô số những việc này. Phải nói ra những điều ấy với anh khiến tôi đau đớn và tôi cứ lần lữa được ngày nào thì đỡ ngày ấy, nhất là khi anh vừa về nhà sau chuyến công tác dài ngày như thế này.

“Em chưa thể nói rằng mình có sẵn lòng hay không anh ạ, nhưng thẳm sâu trong lòng, em biết mình sẽ mong muốn có cơ hội được thực hiện việc ấy …”
“Anh biết, em luôn muốn giúp đỡ mọi người bất cứ khi nào có thể. Liệu em có tự hào về anh không nếu anh sẽ làm những công việc trợ giúp nhân đạo cho những con người như họ?”
“B, em luôn tự hào về anh, về những gì anh đã và đang làm …” Tim tôi bỗng hơi thót lại khi nói những lời ấy, “và cả những gì anh sẽ làm nữa …”
“Cảm ơn em …” B nói thật khẽ rồi kéo tôi vào lòng, ôm siết và hôn lên tóc tôi. “Anh chỉ mong được nghe em nói như thế … Sau chuyến đi này, chúng ta sẽ nói thêm về việc ấy, và về … tương lai của em và anh nữa, nhé?”

Tôi thở dài, khẽ gật đầu và hơi nhăn mặt khi ruột gan mình bỗng vô cớ quặn lên một lần nữa. 

.

Về đến phi trường, trời cũng đã nhá nhem tối. Sau khi đưa Phyllis về nhà, tôi và B tạt vào một tiệm ăn nhanh McDonald vì cả hai đều đói meo sau hai ngày làm việc cật lực và ăn rất ít, người lại mệt rã rời, chỉ muốn ăn gì đó cho nhanh và gọn rồi về nhà lăn ra ngủ. 

“Những lúc như thế này anh mới thấy giá trị nhân đạo của mẹ anh!” B cười tươi khi mở cửa cho tôi trước cửa tiệm McDonald. “Bà ấy lại về Pháp, nếu không thì chúng ta sẽ có bữa tối nóng sốt và thơm ngon chờ đợi tại nhà rồi đấy!”

Tôi mỉm cười, tự dưng nhớ Jacqueline thật nhiều. Dáng đi chậm rãi khoan thai, gương mặt khả ái, dáng người mảnh dẻ, trang phục luôn tao nhã và quý phái cùng với chất giọng Pháp hay hay, Jacqueline đúng là một phụ nữ dễ gây thiện cảm với cả đàn ông lẫn phụ nữ. Tôi thích thú nhớ lại những khi Jacqueline cật lực tranh luận rồi bị con trai móc ngoéo dồn vào thế bí thì bà thường chống nạnh rồi tuôn tràn tiếng Pháp khiến chúng tôi cười ngất vì thứ nhất là chẳng hiểu gì, có lẽ B hiểu được nhiều hơn tôi, thứ hai là dù chúng tôi biết bà đang mắng mỏ gì đấy nhưng không hiểu hết thì cũng huề cả làng. Từ khi bắt đầu quen thân với B thì số lần tôi được mời sang đấy ăn tối cũng tăng dần. Thức ăn Jacqueline nấu thường khá đơn giản nhưng luôn chất lượng và cân bằng dinh dưỡng, và tôi luôn yêu thích những món tráng miệng nhẹ nhàng và ngon tuyệt sau bữa ăn, cũng do bàn tay khéo léo của bà thực hiện. 

Tiệm ăn nhanh McDonald vắng hoe và buồn tênh. Đó đây lác đác vài thực khách ngồi riêng rẽ một mình, lặng im gặm bánh mì kẹp thịt băm và gặm nhấm cả sự cô đơn của việc phải ngồi ở hàng thức ăn nhanh và ăn tối một mình như thế này. Tôi nghĩ đến những bữa tối ngon lành ấm cúng ở nhà Jacqueline và so sánh chúng với những buổi tối mà ông Đại tá chồng bà đã phải ngồi một mình, vất vưởng đâu đó ở những hàng ăn nhanh thừa calories và thiếu dinh dưỡng như thế này, hoặc nếu ông may mắn hơn, sẽ ngồi cạnh một người đàn bà có lẽ cũng khá đẹp đủ để ngài chiếu cố đến nhưng lại thiếu chiều sâu đủ để giữ chân ông lại, hoặc có lẽ, đa phần là ông sẽ ăn tối với những người đàn ông khác, trong những bộ quân phục chỉn chu đẹp đẽ nhưng vô hồn vô cảm. Nghĩ đến đấy, tôi lại rùng mình, lắc đầu như cố xua đi những hình ảnh nặng trĩu và xám xịt ấy. 

Tiếng ồn ào phát ra từ truyền hình trong tiệm ăn nhanh đã kéo tôi về với thực tại. Truyền hình đang trực tiếp chương trình đua ngựa Preakness hoành tráng hàng năm đã gây nên sự chú ý của mọi người, cắt ngang mọi ý nghĩ lang thang của những thực khách, trong đó có cả tôi. Những gương mặt trầm tư kia lại như lóe lên một vài tia sáng mỏng khi những đôi mắt mỏi mệt ấy hướng nhìn lên truyền hình, và rồi giọng nói vui nhộn của bình luận viên đã hoàn toàn chiếm lĩnh tâm tư mọi người, ai cũng có vẻ bắt đầu háo hức về cuộc đua, đó đây đã có vài lời trao đổi bình luận vui vẻ giữa những con người vốn từng xa lạ với nhau cách đấy chỉ vài phút. 

“Em ngạc nhiên khi nài ngựa toàn người lớn anh ạ!” Tôi vô tư nói với B khi anh cũng đang nhìn lên màn hình. 
“Ý em là sao?” B nhìn tôi, hơi nhướn mày ra chiều không hiểu. 

Đến lượt tôi không hiểu anh, và rồi trong một thoáng, tôi và B đều ồ lên khi chợt hiểu ý của nhau. Trước mắt tôi, trên màn hình, những người đàn ông nài ngựa nhỏ thó như những cậu bé mười tuổi đang trả lời phỏng vấn, gây nên sự ngạc nhiên trong tôi. Trong trí nhớ và ấn tượng của mình, hồi xem phim “Trên lưng ngựa” lúc còn bé, tôi vẫn không quên được câu chuyện cảm động về chú bé nài ngựa Sang cùng những mảnh đời cơ hàn của những cậu bé lam lũ khác có hoàn cảnh tương tự như cậu. Do tính chất đặc biệt của nghề nài ngựa, nài phải càng bé, càng nhẹ cân càng tốt. Chủ nài cũng cố ý không cho nài của mình ăn đầy đủ vì sợ chúng tăng cân sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc đua. Tôi vẫn không quên được hình ảnh cậu bé Sang phải trùm mền xông hơi trước giờ đua để cậu vã mồ hôi và do đó sẽ nhẹ cân bớt. Bao nhiêu hình ảnh đen tối cứ thế nối tiếp nhau trong tâm tưởng mình, và khi những hình ảnh ấy bắt đầu được chuyển tải thành lời để kể cho B nghe thì họng tôi đã bắt đầu nghẹn. Anh nắm tay tôi, đôi mắt xanh ngọc trong veo thường ngày của anh bỗng trở nên xám xịt. 

“Anh đã đi nhiều, thấy nhiều về lạm dụng lao động trẻ em, giờ đây lại được nghe một câu chuyện thương tâm với một khía cạnh hoàn toàn mới, lại là từ em … Khi nãy em hỏi anh tại sao nài ngựa toàn người lớn, là vì luật pháp nghiêm cấm sử dụng lao động trẻ em, đơn giản thế thôi em ạ. Thế giới này còn nhiều bất cập lắm …”

B lại thở dài, có vẻ định nói gì đấy nữa rồi lại thôi. Tôi nhìn anh và mỉm cười, biết rằng mình đã yêu quá tất cả những gì thuộc về anh, thậm chí cả những thói quen “đáng ghét” ngày nào của anh như thế này. Tiệm ăn đã có nhiều khách hơn, ồn ào hơn vì cuộc đua ngựa, tôi đang ngơ ngáo nhìn những thực khách vừa bước vào thì B cũng vừa vội đứng lên và bảo anh muốn đưa tôi ra về mà chẳng giải thích lý do, mãi về sau tôi mới biết đó là vì khi ấy có một con ngựa vừa bị gẫy chân và ngã quỵ xuống đường đua mà tôi không để ý. Thật bất hạnh cho loài ngựa, một khi bi gẫy chân cũng có nghĩa là phải nằm chờ chết, thú y dù có hiện đại đến đâu cũng vô phương cứu chữa. Cũng vì thế, loài người đã phải miễn cưỡng giúp chúng có một cái chết nhẹ nhàng và nhanh chóng. Anh không muốn tôi lại chất chồng thêm một nỗi đau khác về những trái khoáy trong cuộc sống, nhưng liệu anh sẽ bảo bọc tinh thần cho tôi được thêm bao lâu nữa? 

Lại một đêm thật dài vì mất ngủ

Thursday, October 25, 2018

Giáng Sinh xưa - Edelweiss (49B)




“Ôi, em không thể phân biệt được đâu là anh đâu là ba anh đấy!” 

Tôi kêu lên kinh ngạc và thích thú khi nhìn vào hai khung ảnh mà B vừa đưa cho tôi xem khi chúng tôi đã về đến nhà anh. Hai khung ảnh đen trắng có chân dung hai người đàn ông tuổi đôi mươi trong quân phục hải quân, giống nhau như hai giọt nước. B mỉm cười và gật đầu. 

“Có những lúc anh biết mẹ anh cứ lặng lẽ ngắm anh từ xa vì trông anh giống chồng bà ấy quá.”
“Nghĩa là bà ấy vẫn còn yêu ba anh?”
“Anh cũng nghĩ như thế. Đôi khi yêu và hận không có ranh giới rõ rệt em ạ.”
“Yêu nhiều thì hận cũng lắm mà!” Tôi gật gù tán thành. “Liệu họ sẽ có khả năng hàn gắn với nhau sau bao nhiêu năm đổ vỡ kia không anh?”
“Anh chẳng biết nữa, chưa bao giờ mẹ anh đề cập đến điều ấy.”
Không khí hơi chùng xuống, rồi anh lục tìm trong ngăn kéo và lôi ra một chiếc hộp xì gà vuông bằng gỗ với cạnh chừng hai mươi centimet. 
“Đây là một dạng kỷ vật của ba anh. Chẳng hiểu tại sao anh đã rất thích chiếc hộp này khi còn bé, và khi ông cho anh chiếc hộp, anh đã mừng rỡ cất giữ nó như một món đồ quý giá.”

B mỉm cười khi anh mở hộp xì gà, khẽ nhắm mắt thích thú hít hà mùi hương từ chiếc hộp và lôi ra vài bức ảnh của ba anh thời ông ấy đang đồn trú ở Đức trong những năm cuối của thập niên năm mươi. Trong bức ảnh trắng đen, một quân nhân trẻ ở độ tuổi đôi mươi thật đẹp trai trong quân phục rằn ri đang ngồi trong xe Jeep quân đội, mũ đội lệch, kính râm thật ngầu, tay cầm điếu thuốc cháy dở, miệng cười thật tươi. 

“Đây là hình ảnh cuối cùng của chiếc xe Jeep, cũng có thể là nụ cười cuối cùng của ông ấy trước khi chiếc xe mất tích vào ngày hôm sau.” B mỉm cười giải thích cho tôi. “Tối hôm ấy, ông và các bạn đồng ngũ được phép đi vào trung tâm thành phố, thế là cả hội kéo đi uống rượu và say xỉn đến nỗi chẳng biết đã đậu xe ở chỗ nào, cuối cùng cả hội phải đi bộ hơn chục cây số trở về trại vì mất xe. Sau vụ ấy, vì ba anh là người lái xe nên ông phải chịu trách nhiệm chính và do đó cũng bị khiển trách nặng nhất. Cả mấy tháng sau đó, ông đã phải đi đổ rác và rửa xe miệt mài cho cả trại!”

Tôi bật cười khi nghe chuyện của ba anh thời ông còn trẻ. Đúng là cha nào con nấy, đều là những kẻ phiêu lưu mạo hiểm, thách thức hiểm nguy và chẳng biết sợ là gì.

“Và đây là những bức thư ông ấy đã viết cho mẹ anh trong thời gian ông đi công tác xa nhà.” Mắt B hơi tối lại. “Anh đã lục tìm chúng trong thùng rác và giữ lại … bà ấy đã vứt chúng đi hồi họ mới chia tay …”

Tôi xúc động khi nghe điều anh vừa chia sẻ và đọc thư. Những dòng chữ thẳng đứng, rắn rỏi nhưng lời lẽ thì khá mềm mại đã hé mở nhiều chi tiết thú vị về ngài Đại tá hải quân đặc biệt tôi vừa gặp sáng nay. Ông có gương mặt vuông vức và cương nghị của một vị tướng lãnh quân đội nhưng thần thái dịu dàng trong đôi mắt ông lại phản bội sự cứng rắn bề ngoài ấy. Ông luôn nhìn tôi với ánh mắt ấm áp và trìu mến lúc nói chuyện, như có một sự mềm mỏng tiềm ẩn sâu bên trong lớp vỏ bọc cứng rắn đến hơi lạnh lùng bề ngoài lúc mới gặp. Tướng quân đội hay nhà thơ, chẳng phải rốt cuộc chúng ta cũng chỉ là con người bằng xương bằng thịt với đủ vui buồn yêu ghét đấy sao. Tôi thở dài, chợt nghĩ đến Jacqueline và những thăng trầm bà đã trải qua cùng người đàn ông đáng mến mà tôi vừa gặp, lòng cầu mong mọi việc tốt lành cho cả gia đình ấy. 

“Hay là mình ‘gài độ’ cho họ gặp lại nhau nhé?” Tôi nhìn anh và cười lí lắc.
“Vụ ấy hả, anh chẳng biết nữa. Một canh bạc khá nguy hiểm đây. Khả năng là họ sẽ gặp lại, mẹ anh sẽ tha thứ cho ông ấy, hoặc … bà ấy sẽ nghỉ chơi cả em và anh ra vì tội phản bội!” Anh cười, ấp hai tay lên mặt tôi.
“Bà ấy mê anh và rất thương em, sẽ không nỡ nghỉ chơi chúng ta đâu anh ạ!” Tôi lại cố gỡ gạc khiến anh bật cười.
“Khi nãy anh phát hiện một sự thật thú vị về cha con anh. Anh và ông ấy đều có một sự gắn kết đặc biệt với phim ‘The sound of music’ và bài nhạc nền Edelweiss của phim này. Có lẽ vì ba anh có gốc gác Áo và phim cũng nói về một nhân vật lịch sử của nước Áo là Đại tá hải quân Von Trapp. Còn anh thì chẳng thực sự có lý do gì rõ rệt như ông ấy, nhưng hồi bé tự dưng anh rất thích phim này. Có lẽ vì anh thấy hình ảnh ba mình qua ngài Đại tá nghiêm nghị trong phim cùng lũ trẻ con nghịch như quỷ sứ mà anh từng ao ước được là một thành viên trong ấy!” Anh cười giòn. “Thật buồn cười, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ, anh và ông ấy đã phát hiện nhiều điểm giống nhau đến lạ lùng mà trước đây cả anh và ông ấy chưa bao giờ có thể nghĩ đến!”

Tôi mỉm cười, thích thú nhìn cách anh bộc bạch tình cảm rất thật với ba anh. Đàn ông cũng thật lạ, cứ hay giấu giếm và nén chặt tình cảm để rồi tự làm khổ mình, nhất là những người đàn ông được trui rèn trong một môi trường nghiêm khắc và kỷ luật như thế này.

“Ôi, em cũng rất thích phim ấy. Hồi còn bé, truyền hình hay phát sóng phim này, em và cả nhà cứ xem đi xem lại mãi không chán!”
“Phim phản ánh khá chân thực cuộc đời ngài Đại tá ấy đấy. Một sĩ quan quả cảm đã lập nhiều công trạng cho hải quân Áo, một nhà ái quốc khảng khái. Ông đã đành đoạn từ bỏ quê hương khi Hitler vừa manh nha bành trướng châu Âu và muốn thu phục quân đội Áo. Edelweiss là một bông hoa biểu tượng cho sự tinh khiết và một tinh thần quả cảm bất khuất, cũng là bông hoa biểu tượng của nước Áo nữa. Bài hát này được viết cho phim cũng là để phản ánh tâm trạng giằng xé của ngài Đại tá ái quốc, từ đó nó được xem như bài hát biểu tượng liên quan đến nước Áo. Đã có nhiều người lầm tưởng đây là quốc ca Áo đấy.” Anh mỉm cười sau khi hăng hái giảng giải cho tôi về bông hoa biểu tượng và bài hát đẹp đẽ kia. 
“Em nhớ hồi anh đưa em đi xem hải cảng về đêm trên đồi cao, anh đã huýt sáo bài này.”
“Trời đất, em nhớ cả chuyện linh tinh như thế ư? Anh còn chẳng nhớ việc ấy!” B ngạc nhiên nhìn tôi nhưng ánh mắt anh thật hạnh phúc. 
“Ôi em nhớ nhiều chuyện lắm!” Tôi tủm tỉm cười, mơ màng nhớ đến buổi tối lạnh cóng ấy và cả tai nạn vô duyên của tôi có liên quan đến chiếc corset chết tiệt kia.
“Em nhắc đến tối hôm ấy làm anh lại nhớ đến ‘the C incident’ của em đêm ấy nhé!” 

B cười láu cá và nhìn tôi với ánh mắt trêu ghẹo thật đáng ghét, thế là tôi quyết định trêu lại anh. 

“Vâng. Tai nạn của em cũng dẫn đến tai nạn của một người khác vào sáng hôm sau chứ gì!” Tôi nháy mắt nhìn B. “Có người đã chẳng dám giải thích gì với cậu bạn đã phát hiện ra cái vật ấy, lòng ngậm ngùi vì có tiếng mà chẳng được miếng!” 

B cười to khi nghe tôi đục khoét vào nỗi đau ấy của mình, kéo tôi vào lòng và cắn nhẹ vào tai tôi. “Trông em hiền lành mà tinh quái lợi hại thật ấy! Sáng hôm ấy thằng bạn anh cũng tò mò, cậu ta hỏi đủ thứ về em, thế là anh có dịp ca tụng em lên đến tận mây xanh luôn!”
“Trời! Thế anh ấy có ghen tỵ với thằng bạn may mắn của mình không đấy?” 
“Chắc là không ghen tỵ, nhưng thèm thuồng thì rõ rồi!” 

Tôi bật cười trước câu chuyện vớ vẩn ấy, lòng lại dâng lên cảm xúc cuộn tràn khi nhớ lại những ngày tháng mới quen và đang thăm dò nhau của cả hai. B có lẽ cũng đang có cùng cảm xúc như tôi, anh nhìn tôi trân trối, ánh mắt lại nồng nàn yêu thương khiến tôi không cưỡng lại được, vội kiễng chân lên và hôn B say đắm khiến anh bất ngờ nhưng lại hạnh phúc lâng lâng, vòng tay ôm tôi thật dịu dàng. 

“Anh rất thích khi em chủ động hôn anh như thế này!” B thầm thì vào tai tôi. “Đàn ông cũng thích có cảm giác được yêu đấy!” Anh lại mỉm cười, khẽ vùi mặt vào tóc tôi khiến tôi rùng mình. 
“Vậy là đàn ông cũng có một sự yếu đuối nhất định hả anh?”

B hơi im lặng trong một thoáng, rồi trả lời tôi.

“Có chứ em. Với phụ nữ, đàn ông luôn bị chinh phục dù bề ngoài có thể không thể hiện ra.” B mỉm cười và khẽ áp má lên mặt tôi, cảm giác cọ xát từ lớp râu hàm vừa lún phún chưa cạo ấy khiến tôi lại rùng mình vì nhột nhạt rồi cười khúc khích. B cũng cười trước việc ấy và nói tiếp. “Anh đã trải qua một đợt trầm cảm kéo dài cho đến khi gặp và quen em … có thể nói, em đã cứu anh khỏi một vòng xoáy không lối thoát … anh chưa bao giờ trải qua những cảm giác tuyệt vời mà em đã mang lại cho anh. Em có hiểu không?”

Tôi lắc đầu, mắt đã hơi ướt vì những lời tâm sự rất ngọt ngào và sâu lắng được nghe lần đầu từ B. Người hay đùa như anh mà cũng đã trầm cảm ư? Lại nhớ lần Jacqueline kể với tôi, rằng anh đã đổi tính từ một năm nay, vậy bản chất của anh có lẽ chẳng phải hay bông đùa như anh đã cố thể hiện chăng?

“Anh đã không đùa khi bảo em rằng em đánh cắp trái tim anh, em còn nhớ không?” B mỉm cười nhìn tôi và mở tròn mắt, xúc động khi thấy mắt tôi đang ươn ướt. “Dĩ nhiên, anh cũng từng có bạn gái trước khi quen em, nhưng anh chỉ thật sự biết yêu từ khi quen em thôi bé ạ. Anh chưa bao giờ tâm sự chuyện sâu kín giữa anh và ba anh với bất cứ ai, em là người đầu tiên anh có thể trải lòng cùng. Và … cũng chính em là người đã giúp anh giải tỏa nỗi đau đớn và rạn nứt trong quan hệ với ông ấy, giúp anh lấy lại cân bằng về mọi mặt. Anh đã cảm ơn em bao giờ chưa nhỉ?”

Tôi lại nhìn B trân trối, không ngờ mình có thể chạm được vào sự mong manh của người đàn ông lúc nào trông cũng mạnh mẽ cứng cáp ấy. Mắt anh lúc này đã long lanh những tia sáng hạnh phúc và bình an, anh vẫn vòng tay ôm tôi, lúc này tôi lại ngả đầu lên ngực anh trong khi anh lắc lư nhè nhẹ và tựa cằm lên tóc tôi. 

“Em cũng phải cảm ơn anh đã tin tưởng em và chia sẻ với em những chuyện sâu kín như thế.” Giọng tôi thoảng nhẹ, vẫn còn vương vẩn một âm hưởng xúc động. “Em nghĩ anh phải là người dũng cảm mới có thể phơi bày phần nội tâm bị tổn thương trước người khác như thế. Đối với em, đó là nét đẹp cao thượng nơi người đàn ông đấy anh ạ!” 

B khẽ gật đầu, chẳng nói gì thêm, tôi cũng im lặng hòa mình vào khoảng không riêng tư tuyệt vời giữa chúng tôi lúc ấy. Yêu và được yêu, hiểu và được hiểu, có lẽ tôi và anh chẳng còn mong đợi gì nhiều hơn ở nhau nữa. 

“Này B, nhân nói về phim và bài hát Edelweiss, em hy vọng sẽ đàn được bài này. Anh dạy em đàn nhé?” Tôi thay đổi đề tài. 
“Edelweiss có giai điệu đơn giản mà, em chẳng cần ai chỉ dạy đâu. Anh nghĩ em tự đàn được đấy.”
“Cám ơn anh đã đánh giá em cao như thế!” Tôi cười. “Có thể em sẽ tự mò ra cách đánh giai điệu nhưng em chưa biết cách tự đệm đàn bằng tay trái đâu anh ạ.”
“Vậy thì anh sẽ đệm cho em!” 

B vừa nói vừa đứng lên rồi dắt tay tôi đi xuống tiền sảnh dưới nhà, nơi chiếc dương cầm đen tuyền vẫn nằm im lìm, giận dỗi chờ tôi từ nhiều ngày nay bên cạnh chiếc ghế băng bọc nhung đỏ sậm quen thuộc. 

“Anh biết, em đã phải trốn học để đi chơi với anh cũng khá nhiều, hôm nay em lại học bù, nhé!” 

B nháy mắt với tôi khi anh mở nắp đậy dãy phím đàn lên. Tôi lại giả vờ thổi mạnh lên trên ấy như để thổi đi lớp bụi tưởng tượng nhằm phụ họa lời B vừa nói khiến anh thích chí cười vang.

“Anh phụ trách việc nhấn pedal chân nhé!” 

Tôi phân công cho B và anh lắc đầu vờ ngán ngẩm bảo tôi lười quá. Sau khi tôi tập giai điệu trước rồi đến B thử phần đệm, chẳng mất nhiều thời gian, tôi và anh đã ráp lại và cùng nhau đàn hết cả bài Edelweiss khá nhuần nhuyễn, vượt xa sự mong đợi của tôi. Anh chỉ tôi cách nhấn và luyến âm bằng cách tạo thêm vài nốt không có trong bài nhạc gốc để giai điệu trơn mượt hơn và thích thú khi thấy tôi đàn những nốt nhạc đột phá ấy chẳng khó khăn gì. 

Edelweiss Edelweiss
Every morning you greet me
Small and white
Clean and bright
You look happy to meet me

Blossom of snow may you bloom and grow
Bloom and grow forever
Edelweiss Edelweiss
Bless my homeland forever

Giai điệu mượt mà da diết phát ra từ chiếc dương cầm ngân vang khắp nhà khiến tôi không khỏi mường tượng đến giọng hát trầm ấm của ngài Đại tá Von Trapp và câu chuyện tình yêu dễ thương trong phim, lại được đàn cùng với người đàn ông tôi yêu đắm đuối … cứ thế tôi nhập tâm đến nỗi vừa đàn vừa nhắm mắt lúc nào chẳng hay. 

“Xoảng!!!”

Có tiếng thủy tinh hay sành sứ vừa rơi gần cửa chính khiến tôi và B giật mình cùng ngừng tay đàn và nhìn ra đấy. Jacqueline vừa về đến nhà từ lúc nào tôi chẳng rõ, chỉ đoán biết bà đã im lặng đứng đấy, mắt đang rưng rưng ngấn lệ vì hình ảnh và âm thanh trước mặt mình. Bài hát ấy đã khiến bà bồi hồi nhớ đến ngài Đại tá hải quân gốc Áo đẹp trai mà chúng tôi vừa đi thăm về. Đây cũng chính là nhạc nền của bộ phim “The sound of music” mà ông bà từng xem với nhau trong lần hẹn hò đầu tiên, một trong những kỷ niệm tình yêu đẹp đẽ khó quên trong đời người phụ nữ Pháp thanh tao và đẹp không có tuổi ấy.

Friday, September 14, 2018

Giáng Sinh xưa - And she'll promise you more than the garden of Eden (47B)


Căn phòng sáng sủa, gọn gàng sạch sẽ, tường màu xanh nhạt, treo đầy ảnh các ban nhạc rock lừng danh như The Beatles, Guns and Roses, Pink Floyd, Queen … Dĩ nhiên, tôi chẳng biết hết các ban nhạc này, chỉ nhận ra mỗi The Beatles huyền thoại. Gần cửa sổ nhìn xuống sảnh chính của ngôi nhà là chiếc bàn làm việc với máy vi tính xách tay và vài quyển sổ tay xếp chồng lên nhau ngăn nắp gọn gàng, một chiếc cốc bằng sứ màu xanh thủy quân có chữ “N” (viết tắt của “Navy”) mạ vàng chứa đầy bút viết, cạnh bàn giấy là kệ sách nho nhỏ chất đầy sách dầy mỏng đủ loại, cũng gọn gàng tinh tươm, và cây guitar dựng ở góc phòng cạnh tủ quần áo. Ở bức tường đối diện kệ sách là những tấm áp phích của hải quân với hình ảnh những chiến hạm, những khẩu hiệu, vài tấm ảnh chân dung của anh lúc mới vào học viện hải quân, một số bằng khen về những thành tích học tập và thể thao cùng vài tấm ảnh chụp chung với các bạn đồng khóa tại các sự kiện thể thao của học viện. Tấm ảnh to nhất là ảnh chụp với các bạn nhân ngày tốt nghiệp, nằm ngay giữa trung tâm những bức ảnh còn lại. Tôi thích thú nhìn nét mặt rạng ngời của anh và các bạn trong tấm ảnh ngày tốt nghiệp ấy, ai cũng quân phục trắng chỉnh chu trên nền trời trong xanh đầy nắng vàng trông thật đẹp và thanh thoát. Nhìn tấm ảnh, tôi chợt nhớ ra vụ gặp Alex trước đấy và quyết định “khai báo” xem B có phản ứng gì không. 

“À, khi nãy lúc đi tìm anh ở hồ bơi, em có gặp Alex …” 

Tôi cố tình dừng tại đấy nhưng B chỉ mỉm cười, một bên mày hơi nhướn lên chờ tôi kể tiếp. Tôi quyết định yểm đi chi tiết Alex gửi lời chào mà thực chất là có ý thách thức anh, thay vào đó tôi chỉ kể nửa phần còn lại.

“Em có bảo Alex rằng bạn trai em có nhã ý gửi lời chào đến anh ta!” 

B nghe đến đấy lại cười vang và lắc đầu. “Em cũng ghê gớm thật đấy! Mà em cứ yên tâm, anh không có lấn cấn gì với Alex cả. Nếu đã gặp mà không thích em thì hắn mới là kẻ có vấn đề!”

Tôi mỉm cười, thích thú khi thấy B rất thả lỏng sau những ngày căng thẳng vừa qua, mắt lại hướng đến kệ sách rồi tôi bước sang và ngắm nghía những khung ảnh trên ấy. 

“Lúc này anh khoảng sáu tuổi.”

B chỉ vào tấm ảnh có cậu bé đang đứng nghiêm trang với hai tay nắm vào nhau, áo sơ mi trắng dài tay, quần ngắn xanh dương và cà vạt đỏ, giày da đen kèm tất trắng, tóc vuốt gel gọn gàng khoe vầng trán rộng tinh anh, miệng vo tròn, có vẻ như đang hát. 

“Hôm ấy anh hát bài ‘La Marseillaise’ ở hội Pháp nhân ngày quốc khánh Pháp.”
“Anh đã hát bài gì?” Tôi nheo mắt hỏi. 
“Bài ‘La Marseillaise’, quốc ca Pháp.”
“Hả, anh vừa nói bài hát gì?” Tôi hỏi lại, cố nhịn cười. 
“Bài ‘La …’, này, em đang giở trò gì đấy?” 
B nheo mắt nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ khiến tôi cười khúc khích. Cách anh phát âm “La Marseillaise” và những từ Pháp khác nghe rất hay, giống giọng Pháp chuẩn rất thích, thế nên tôi cứ láo lếu giả vờ hỏi đi hỏi lại. 

Rồi tôi chuyển đề tài. “Trông anh đáng yêu quá. Tự dưng em liên tưởng đến Tyler.”
B mỉm cười và gật đầu. “Anh cũng nhớ cậu bé đặc biệt ấy. Nhắc đến Tyler anh mới nhớ, tí nữa em nhớ nhắc anh ra bưu điện gửi thiệp cho cậu bé nhé.”

Tôi mỉm cười gật đầu với B, mắt lại chuyển sang một bức ảnh khác của anh, cực kỳ ấn tượng khiến tôi ngớ người ra. Bức ảnh trắng đen với hình ảnh một thiếu niên mới lớn chừng mười bảy, mười tám tuổi, quần jeans bạc và rách tơi tả, áo thun đen in hình bốn gương mặt trẻ măng của The Beatles, tóc mềm mại và óng như lụa, gợn sóng và dài rũ rượi đến tận vai và lòa xòa trên mặt. Cậu thiếu niên trong ảnh đang ngồi bắt chéo chân trên cỏ và dựa lưng vào gốc cây cổ thụ, nét mặt sầu đời hơi cúi xuống nhưng mắt hơi nhíu lại và nhìn thẳng vào ống kính máy hình đầy thách thức trông rất bụi bặm, tay hờ hững cầm điếu thuốc đang cháy dở, bên cạnh là cây đàn guitar cũng dựa hờ hững vào thân cây. Và một chữ ký ở góc phải bức ảnh. 

“Trời ạ, ngày xưa anh thác loạn đến thế này ư?” Tôi kêu lên vì ngạc nhiên tột độ. 
“Không thác loạn đâu, chỉ nổi loạn thôi!” Anh cười. “Thật khó cho em liên tưởng đến hình ảnh này phải không?”
“Cũng không quá khó … em thấy hình ảnh này vẫn rất hợp với anh ngay cả bây giờ cơ!” Tôi thật thà phát biểu. “Lần đầu gặp anh, em đã loáng thoáng thấy hình ảnh này rồi đấy, lạ lắm, và gần đây nhất là khi anh ôm đàn và hát ở câu lạc bộ jazz ấy.” Rồi tôi nêu lên một thắc mắc khác. “Này B, tại sao bức ảnh này lại có chữ ký nhỉ? Của ai đấy?”
“Chữ ký của anh! Hồi đó anh từng muốn chơi nhạc chuyên nghiệp đấy. Đã từng đánh guitar bass dự bị cho một ban nhạc rock mới nổi như một thú vui, về sau họ thích anh và mời anh tham gia chính thức, đó cũng là lúc ban nhạc bắt đầu lôi cuốn được sự chú ý của công chúng và vừa ký được hợp đồng ghi âm hoành tráng đầu tiên. Thế là anh đã tưởng tượng đây sẽ là ảnh của mình gửi tặng fan hâm mộ!” B cười to. 
“Em nghĩ tấm ảnh này mà phóng lớn làm áp phích thì sẽ có khối cô mang về dán trong phòng mình đấy nhé!” Tôi cũng cười nhưng rất thật lòng trong lời khen ấy. “Với lại, đây có phải là thời gian anh đi đánh đàn dạo như có lần anh đã kể cho em phải không?” 
“Đúng rồi!” Anh cười tươi. “Muốn tự khẳng định mình mà! Với lại, việc anh nổi loạn như thế cũng là vì anh muốn chọc giận ba anh thôi. Ông là sĩ quan quân đội nên rất không ưa những anh chàng hippie tóc dài luộm thuộm, tính tình nghệ sĩ và hay than mây khóc gió.” B lại bật cười. 
“Em nghĩ không phải anh chỉ muốn chọc giận ông ấy mà thẳm sâu anh lại muốn được ông quan tâm đến mình hơn thôi đúng không?” 

B nhìn tôi đầy trầm ngâm, lại nhíu mày như những khi anh phải đối diện với những vấn đề sâu sắc, rồi khẽ gật đầu trả lời tôi. 

“Em hiểu anh nhiều đấy. Chắc chắn là như thế, mặc dù hồi đó anh không nhận ra điều ấy.”
“Và rồi anh chuyển hướng, muốn được như ông và giỏi hơn cả ông nữa, để được ông công nhận …” Tôi vẫn nhìn B và tiếp tục nói ra những tâm sự sâu kín của anh. “… và một ngày nọ, anh nghệ sĩ tóc dài bất cần đời kia bỗng bị cạo trọc đầu để trở thành một tân sinh viên hầm hố của Học viện Hải quân!” 

Tôi cười khìn khịt, cố bông đùa để xua đi không khí hơi nặng nề mỗi khi nhắc đến ba anh và việc ấy đã có kết quả khi nhìn thấy nụ cười rạng rỡ như nắng xuân trên mặt anh.

“Mà này, hồi đó tiếc là anh đã chẳng giữ những lọn tóc dài ấy …”
“Trời, giữ để làm gì hả em?”
“Thì để làm kỷ niệm, hoặc … sau này bán đấu giá nếu anh bỗng trở nên nổi tiếng!”

B cười vang và âu yếm hôn lên má tôi.

“Anh thích trí tưởng tượng phong phú của em lắm. Nhưng anh cũng thích cái ý nghĩ ấy của em nữa.”
Tôi lại thích thú ngắm nghía bức ảnh “hoang dã” của anh rồi nhận xét. 
“Hồi đó em cứ tưởng anh chỉ chơi dương cầm thôi.”
“Thật ra anh thích guitar hơn, mặc dù hồi còn bé thì phải học dương cầm vì bị mẹ ép!” 
“Hay là anh đàn guitar và hát cho em nghe nhé?” Tôi giở giọng phụng phịu vòi vĩnh khiến B phì cười rồi nhìn tôi với ánh mắt thú vị. 
“Anh chưa bao giờ đàn hát riêng cho cô gái nào cả, cảm giác hơi buồn cười về việc ấy. Nhưng em muốn gì mà chẳng được, anh phải chiều em thôi cưng ạ!”

B vừa nói vừa khẽ véo cằm tôi rồi bước đến góc phòng, cầm cây guitar lên và cố tình thổi mạnh lên đấy như cố ý cho tôi thấy nó đã đóng bụi quá lâu chẳng được động đến và nháy mắt tinh nghịch với tôi rồi nói, “Và em không được kể cho ai về vụ này đấy nhé, kể cả mẹ anh!” khiến tôi cười vang và gật đầu hứa ảo. 

Anh kéo ghế cho tôi rồi ngồi lên ghế đối diện, nhìn tôi dò xét trong vài giây, mắt hơi nhíu lại rồi bỗng đưa một ngón trỏ lên như vừa nghĩ ra được một ý hay. 

“Có một bài hát này cứ như được viết riêng cho em vậy, em nghe nhé.”

B lại mỉm cười thật dễ thương, anh dạo đàn rồi hát bài “She’s always a woman” của Billy Joel. Dường như lúc này tôi vòi anh hát cho tôi nhìn thì đúng hơn. Sau khi lại bị anh hớp hồn vì hình ảnh chàng lãng tử ôm đàn guitar đêm nhạc jazz nọ, tôi cứ mong lại được ngắm anh như thế một lần nữa. 

Tôi cười khúc khích khi B vừa hát vừa nhìn tôi với nét mặt đầy biểu cảm vì lời bài hát sao cứ như lời trách yêu của anh nhạc sĩ với người phụ nữ của mình thế này. Những sợi dây đàn căng lên theo nhịp ngón tay anh lướt, tôi tiếc nuối khi những ngón thiên thần ấy dạo những nốt nhạc cuối cùng lúc bài hát vừa kết thúc. 

“Ôi, cô người yêu trong bài hát này khá tàn nhẫn với anh nhạc sĩ, sao anh lại ví em với cô ấy như thế?” Tôi cười và phản đối với anh.
“Không đâu, cô ấy đáng yêu lắm chứ! Anh nhạc sĩ chỉ vờ trách yêu cô ấy thôi em ạ.” Anh cười tươi nhìn tôi. “Em phải hiểu theo nghĩa ẩn dụ mới hiểu hết tình cảm ấm nồng của anh ấy dành cho người yêu. Đây này, em nghe lại nhé.”

Anh lại dạo đàn và hát từng đoạn. 

“She can kill with a smile, she can wound with her eyes
She can ruin your faith with her casual lies
And she only reveals what she wants you to see
She hides like a child but she's always a woman to me …”

“Em nhớ không, có người nướng bánh mà lò nướng thì nguội ngắc và bồn rửa trong bếp cũng chẳng có chiếc bát đựng bột nào cả. Nếu chẳng phải em đã lơ đãng nói dối và rồi cố che giấu như một đứa trẻ thì là gì?!” 
Tôi tủm tỉm cười, nhớ lại lần anh “lạc bước” đến nhà tôi đêm đông nọ và bà Rosalyn mang bánh mỳ nóng sang biếu rồi tôi bảo anh rằng bánh mỳ ấy do tôi nướng lúc anh đang ngủ. Trời ạ, hôm ấy ông tướng hay để ý này còn nhìn ra chuyện gì nữa ở nhà tôi mà tôi chẳng biết đấy? Chuyện nhỏ và xa lơ xa lắc thế kia mà anh vẫn nhớ ư?

“She can lead you to love, she can take you or leave you
She can ask for the truth but she'll never believe you
And she'll take what you give her as long as it's free
Yeah she steals like a thief but she's always a woman to me …”

Nhìn nét mặt chẳng có vẻ gì là đồng thuận với những gì vừa được nghe của tôi, anh mỉm cười giải thích. 
“Từ ‘free’ đây phải được hiểu là ‘vô điều kiện’ nhé. Em thấy anh có bao giờ có thể đặt điều kiện gì với em được không?”

Tôi thích thú thầm nghĩ đúng tôi mới là kẻ hay đặt điều kiện lôi thôi với B, chứ anh lúc nào cũng cưng chiều tôi mà chẳng bao giờ thật sự đòi hỏi gì từ tôi cả. 
“Nhưng tại sao anh lại gọi em là kẻ cắp trắng trợn?” Tôi lại giãy nãy lên bắt bẻ thì anh đã mỉm cười và chỉ ngón tay vào ngực mình, tôi hiểu ý anh muốn nói “Em đánh cắp trái tim anh!” 

Rồi B lại nhướn mắt, hất mặt về phía tôi trong khi tay bắt đầu lại dạo đàn và nói tiếp. “Này, tiếp theo là đoạn quan trọng em cần lưu ý nhé. Tội nặng của em đây!”

“And she'll promise you more than the garden of Eden
Then she'll carelessly cut you and laugh while you're bleeding …”

B hơi hắng giọng và tủm tỉm cười nhìn tôi, cố ý ngưng lại như để cho tôi “gặm nhấm” nỗi đau của anh khiến tôi đỏ mặt vì biết ẩn ý của anh rồi. Tôi biết, hôm hẹn hò lần đầu với B, lúc tạm biệt tự dưng tôi lại nổi hứng mời anh vào nhà cho một việc vớ vẩn khiến có người lầm tưởng cửa vườn Địa đàng đã mở toang chờ đợi và rồi phải tẽn tò tay trắng ra về. 

Tôi nhìn ra cửa sổ, bâng quơ xoắn một lọn tóc vào ngón tay khi nghe trống ngực mình bắt đầu đập mạnh. Quả thật, mình đúng là ngơ ngáo mà. Con gái khi yêu thì chỉ mơ về những điều lãng mạn, đâu nghĩ người yêu của mình thì lại mơ đến vườn Địa đàng và trái cấm. Lại thoáng nhớ đến việc gặp B hồi chiều nay ở hồ bơi và nhìn cơ thể cân đối và rắn rỏi của anh lần đầu tiên, lại lúc đang ướt sũng như thế kia, tôi cố nén hơi thở hơi dồn dập của mình và lại đỏ mặt. Anh chẳng còn phải mơ lâu nữa đâu, chàng trai si tình đáng yêu kia ơi!

“She is frequently kind and she's suddenly cruel
She can do as she pleases, she's nobody's fool”

“Bình thường em dịu dàng dễ thương, thế mà cũng biết cố tình chọc cho anh nổi cơn ghen vô duyên hôm ấy. Em có xu hướng hành xử theo cảm xúc bất chợt, nhưng em luôn biết mình muốn gì!”
Anh lại cười, ánh mắt cuộn sóng dào dạt bao lấp như chực chờ nhấn chìm kẻ sắp chết đuối là tôi vào lúc này đây, tay lại thong thả lướt nhẹ trên những sợi dây đàn và tiếp tục “kể tội” tôi. 

“But she can't be convicted, she's earned her degree
And the most she will do is throw shadows at you
But she's always a woman to me.”

Nghe đến đoạn này tôi cười ngất. “Em hiểu rồi anh ạ. Hôm nọ anh đã tự nguyện ‘cấp bằng’ cho em được miễn trừ mọi tội lỗi, thế nên em sẽ chẳng bao giờ bị kết tội cả. Ý đồ của anh nhạc sĩ là đây, cuối cùng cũng khẳng định một tình yêu vô điều kiện với cô người yêu tưởng chừng rất láo lếu nhưng vô cùng dễ thương này!”

B gật đầu, lúc này anh đang dựa cằm lên cánh tay đang xếp thành góc vuông và đặt trên cây guitar, nhìn tôi tủm tỉm cười. 

“Em thích bài hát này, dễ thương thật, cũng hơi giống chuyện của em và anh ấy nhỉ.” Tôi mỉm cười nói tiếp. “Mà em thấy cũng lạ. Hồi đó anh chơi với ban nhạc rock rất ngầu, sao bây giờ toàn hát tình ca nhẹ nhàng vớ vẩn thế này?”

B cười to, biết tôi lại vừa trêu mình nên cứ vờ tôi luôn mà chẳng thèm trả lời. Nếu đang ngồi cạnh anh chắc tôi đã bị cốc vào đầu rồi.
Đã có một thoáng mất tự nhiên giữa hai người khi tôi và B đang ở trong phòng riêng của anh như thế này. Hôm nay tôi cảm nhận rất rõ một chất xúc tác mãnh liệt giữa tôi và B. Tôi hiểu anh vẫn kiên nhẫn đợi tôi bật tín hiệu cho anh biết khi tôi đã sẵn sàng nhưng lòng lại lăn tăn, chẳng biết cái “đèn xanh” thần thánh kia cần phải được bật lên như thế nào mà không ảnh hưởng đến lòng tự trọng và cả một chút kiêu hãnh của một cô gái đang yêu như điên như dại đây. Nhìn vào đôi mắt anh khi nãy, tôi thấy những đợt sóng đam mê mãnh liệt cứ nối tiếp nhau không ngớt như chỉ chực chờ cuốn phăng tôi ra khỏi đất liền chỉ trong một tích tắc lơ là nguy hiểm. Tôi biết mình lung lay nhiều lắm rồi, đã sẵn sàng bước vào khu vườn bí mật cho những chuyến phiêu lưu mới mẻ chưa bao giờ biết đến với nhà thám hiểm bẩm sinh kia, lòng cứ hồi hộp tưởng tượng đến chuyến vượt đại dương lần đầu với anh, mong muốn nó sẽ thật đẹp, thật lãng mạn như phim mới thôi. Rồi tôi lại tự chế giễu mình khi đã lãng đãng quá đà như thế, lòng lại cuồn cuộn bồn chồn. Nghĩ ngợi lung tung, tôi đoán có lẽ mình chỉ còn thiếu một ly vang đỏ để hòa tan tất cả những lo lắng tưởng tượng nào đó trong trí cho cuộc phiêu lưu thần thánh này mà thôi! 

Tuesday, September 11, 2018

Maryland Renaissance Festival (The Rennfest)


Mùa thu là mùa bắt đầu của những lễ hội quan trọng tại Mỹ. Nhiều người đã biết đến lễ Tạ ơn (Thanksgiving) hoặc Halloween phổ biến nhưng ít ai biết đến một lễ hội văn hóa độc đáo và khá hoành tráng được tổ chức hàng năm tại tiểu bang Maryland bên bờ Đông, lễ hội Phục hưng (Renaissance Festival) lớn thứ nhì trên toàn nước Mỹ, được tổ chức vào đầu mùa thu hàng năm vào ngày thứ Bảy và Chủ nhật cuối cùng của tháng tám và kéo dài suốt chín tuần lễ, thu hút vài nghìn lượt người đến tham dự mỗi cuối tuần.


Chưa đến cổng chính, bạn đã có cảm giác đang đi lạc ở làng Revel Grove của nước Anh năm 1525 vì những bộ trang phục xưa khoác trên những con người đang hăm hở đi trẩy hội với những đường nét cắt may và màu sắc hoàn hảo được chú ý đến từng chi tiết nhỏ, cộng với dãy tường thành bao bọc cao khoảng năm mét tại lối vào càng làm bạn phấn chấn và biết mình sắp được chu du ngược vào lịch sử nước Anh xa xôi, đắm mình trong thế giới nhiều huyền thoại thời ấy trong khuôn viên bạt ngàn rộng hai mươi bảy mẫu này.


Đây là lễ hội tái hiện cuộc sống thường nhật thời vua Henry đệ bát vào thời đầu thế kỷ thứ mười sáu ở Anh quốc. Bạn sẽ được chứng kiến nhiều điều mới lạ, từ cuộc sống cung đình của nhà vua và hoàng hậu cùng các vương tôn công tử, tiểu thư quý tộc thời ấy, cho đến đời sống dân dã đường phố trong những năm tháng có nhiều biến chuyển đặc biệt này trong lịch sử vương triều nước Anh. 

Rải rác khắp nơi trong khuôn viên rộng thênh thang này có hơn một trăm ba mươi gian hàng lớn nhỏ bày bán đủ các loại hàng thủ công mỹ nghệ, từ đồ trang sức, đồ chơi, cho đến quần áo và đủ loại xà phòng và kem dưỡng thể tự chế, cùng trên bốn mươi gian hàng bán thức ăn và quà bánh. Nói đến “đồ chơi”, hẳn mọi người sẽ nghĩ đến đồ chơi trẻ em, nhưng bạn sẽ bất ngờ khi những gian hàng này bày bán khá nhiều những loại “đồ chơi” mà những người tự xem mình là “người lớn” sẽ không thể cưỡng nổi khi đi ngang qua và vô tình để mắt đến chúng. Tôi có một anh bạn, một lần nọ kể cho tôi rằng có một lần anh ấy đi chơi ở lễ hội về, say bí tỉ và sáng hôm sau thức giấc với một thanh gươm giả cổ thời thế kỷ mười sáu vẫn còn lủng lẳng mảnh giấy ghi giá bán ba trăm đô la Mỹ anh đã hứng chí mua tại lễ hội hôm trước! Đây chỉ là một trong rất nhiều những câu chuyện buồn cười vốn có thể xảy ra cho bất cứ ai một khi đã bước chân đến đây vì những sự việc bi hài kiểu này chỉ có thể xảy ra ở những lễ hội như thế này mà thôi!


Tạm rời những gian hàng bán đồ lưu niệm, nếu túi vẫn còn rủng rỉnh tiền, mời bạn tạm dừng chân trước một gian hàng bày biện các loại đồ thủy tinh đủ màu thật sặc sỡ và ấn tượng. Một khi đã lạc bước vào rừng thủy tinh lộng lẫy tinh xảo tại đây, bạn sẽ khó quay đi mà không mua một món nào đó! Nếu chưa có điều kiện đến thăm tiểu đảo Murano, thiên đường thủy tinh thuộc Venice của nước Ý, bạn vẫn có thể trải nghiệm và chiêm ngưỡng khá đầy đủ các thao tác thuần thục của các nghệ nhân thổi thủy tinh nơi đây. Họ sẽ dùng những thanh sắt dài và rỗng ruột, nung đỏ một đầu trong lò nung sáng rực và nóng vài nghìn độ rồi nhúng thanh sắt nung ấy vào những hộp đựng thủy tinh vụn chia thành từng loại màu, uyển chuyển xoay đều cho những hạt thủy tinh màu trải ra theo dụng ý của mình và cuối cùng họ sẽ thổi từ đầu bên kia ống sắt, vừa thổi vừa xoay thật điêu luyện, chốc chốc lại cho khối thủy tinh vào lò nung hoặc rắc thêm hạt màu, cứ thế, nghệ nhân vừa thổi vừa xoay, và rồi điều kỳ diệu cứ như vừa xảy ra trước mắt bạn: khối thủy tinh đặc sệt ở đầu nóng bên kia trong phút chốc đã được tạo hình, từ chiếc cốc uống bia to khủng cho đến chiếc bình hoa tinh xảo hoa văn lượn sóng ở phần mép, theo đúng nghĩa đen là chúng vừa được nghệ nhân thổi vào mình một hình thù, một sức sống, trở thành một tác phẩm nghệ thuật đầy sáng tạo mang dấu ấn cá biệt của nghệ nhân đã tạo ra chúng.



Một khi đã bàn đến Lễ hội Phục hưng mà không nhắc đến màn biểu diễn kỵ sĩ đấu thương (jousting) sẽ là một thiếu sót lớn. Khán giả thường phải đến khu vực biểu diễn sớm, ít nhất là mười lăm phút trước giờ diễn vì nhiều khả năng sẽ hết chỗ ngồi nếu đến muộn. Một lâu đài nguy nga dựng ở khu vực chính treo đầy cờ phướn, một dàn nghệ sĩ thổi kèn với những giai điệu hoành tráng trước giờ đấu thương, rồi vua Henry đệ bát và hoàng hậu Anne Boleyn sẽ xuất hiện ở lan can, tươi cười vẫy tay chào các thần dân của vương quốc và hào hứng xướng tên tuổi của các kỵ sĩ, sau đó sẽ trịnh trọng tuyên bố cuộc đấu bắt đầu. Những chàng hề trong trang phục xanh đỏ rộng thùng thình và mũ tua rua chạy nhảy khắp nơi mua vui cho khán giả, những “gã say rượu” bắt đầu chia khán giả thành hai phe, mỗi bên cổ vũ cho một kỵ sĩ. Khi nào kỵ sĩ của bên mình vừa cưỡi ngựa ra và chạy một vòng chào khán giả, phe nhà sẽ tung hô vang dội trong khi phe địch sẽ la ó xì xồ phản đối và “dìm hàng” chàng kỵ sĩ nọ. Tất cả thật náo loạn đúng như quang cảnh một cuộc đấu thương thực thụ đã từng diễn ra thời trung cổ. 



Nếu lỡ cơ hội xem kỵ sĩ đấu thương, không sao, bạn vẫn còn cơ hội quay lại sau chừng hai tiếng đồng hồ. Trong thời gian chờ đợi, hãy đi thăm thú những sân khấu to nhỏ khác nhau nằm rải rác khắp nơi và để những kịch sĩ đưa bạn quay về quá khứ. Đây là nơi bạn sẽ có được “trải nghiệm Shakespears”, tức là được xem những đoạn kịch ngắn thời đấy. Xem kịch xong, bạn hãy đi đến những sân khấu khác để tiếp tục thưởng thức những màn ảo thuật tài tình, những nghệ sĩ ném dao, đấu kiếm cùng những vở hài kịch sẽ khiến bạn thật sự quên đi những điều bạn muốn quên, dù trong chốc lát, để được sống cùng lễ hội và thư giãn toàn phần.

Tôi vẫn ấn tượng về một màn biểu diễn thôi miên tại một trong những sân khấu ấy. Để bắt đầu, nhà thôi miên yêu cầu khán giả nhắm mắt lại và làm theo những gì ông ấy nói. Chúng tôi nhắm mắt, đưa hai tay về phía trước, và khi ông bảo “hãy tưởng tượng tay phải bạn đang cầm một cái xô nước to và nặng”, tay phải tôi bỗng cảm giác chùng xuống vì “sức nặng” của cái thùng nước tưởng tượng kia, hoặc khi ông bảo “trời mưa”, tự dưng tôi cảm giác toàn thân ướt sũng. Sau chỉ năm phút thôi miên kia thôi, khi mở mắt ra, khán giả nhìn nhau cười và tôi hiểu đại đa số vừa bị nhà thôi miên kia đưa nhanh vào vùng ảo giác một cách tài tình. 

Bất cứ cuộc vui nào tại các lễ hội dạng này cũng không thể không có những khu phục vụ trẻ em, tại đây sẽ có sân chơi là một chiếc thuyền hải tặc khổng lồ xây trên bãi cát với đủ dây nhợ và lưới treo, dây đu, ống nhòm. Trước khi đưa bé của bạn sang khu vực thiếu nhi kế cận, xin mách nước với bạn trước rằng đó là một khu đồi nhân tạo với dãy cầu tuột bằng gỗ cao, dài và uốn lượn rất ấn tượng. Nếu bạn không muốn nán lại lâu thì nên tránh xa khu vực này vì một khi lũ trẻ đã nhìn thấy dãy cầu tuột gỗ này thì bạn sẽ khó lòng mà từ chối!

Sau một ngày ròng rã quay về thời vua Henry đệ bát của nước Anh, bạn sẽ về nhà với một sự mãn nguyện đong đầy trong khi lũ trẻ con sẽ nhặng xị tua lại những hoạt động, những điều làm chúng thích thú khi đi chơi tại đây. Bạn sẽ khó lòng từ chối không đưa bọn chúng quay lại vào năm sau vì tôi chắc rằng bản thân bạn, cũng như lũ trẻ đáng yêu kia, cũng rất muốn quay lại đây để tìm lại những trải nghiệm đặc biệt có một không hai một khi đã đến Lễ hội Phục hưng Maryland này. 

Happy Valentine's day!

Tình hình là Valentine năm nay mình đành lỗi hẹn với vụ ra sách GSX, là bởi vì nhà xuất bản làm việc theo kế hoạch từ đầu năm nên muốn nhét ...